Você está na página 1de 3

A SPRICKOLÓ TÖMEGEK Chương bẩy - ĐÁM ĐÔNG TUNG TOÉ NƯỚC

Már kora reggel kiballagott az új munkahelyére. A Mới mờ sáng Pelikan đã tới nơi làm việc mới. Ngay cửa
bejáratnál látja, hogy nagy tömeg várakozik, fiatal fiúk, hắn đã thấy một đám đông đang đợi. Thanh thiếu niên đủ
lányok, kezükben úszóruhát szorongatva, de egy sovány, cả, ai nấy ôm quần áo bơi đợi vào, vì có một người dáng
szigorú ember áll a kapuban, és nem engedi be őket. gầy gò nghiêm khắc chặn cửa không cho họ vào.
Pelikán odamegy, és megkérdi a szigorú ajtónállót: Pelikan bước tới chỉ tay vào đám đông hỏi người canh
cửa:
- Hát ezek mire várnak? - És a várakozókra mutat. - Những người này đợi đây làm gì vậy anh?
- Maga kicsoda? - mordul rá bizalmatlanul a sovány. - Ông là ai? - Tay canh cửa gầy gò quay sang Pelikan
nghi ngờ.
Pelikán szép nyugodtan előveszi a kinevezési okmányt, Pelikan từ tốn móc giấy bổ nhiệm gí vào mũi hắn.
odanyomja a kérdező orra alá.
- Az új igazgató. - Tôi là quản lý trưởng mới ở đây.
A sovány összecsapja a bokáját, úgy adja vissza az írást. Tay gác cửa rập gót đưa lại giấy cho hắn.
- Van ezeknek jegyük? - mutat Pelikán az uszodába - Họ có vé không? - Pelikan chỉ vào đám thanh niên đang
vágyó fiatalokra. đợi.
- Igenis, van. - Dạ, có.
- Akkor miért nem engedi be őket? - Thế tại sao không cho họ vào?
- Nem lehet. - És bizalmasan a fülébe súgja: - Úsznak - Không được ạ. - Tay gác cổng ghé tai hắn thì thầm
odabent. quan trọng: - Trong kia đã có người bơi rồi.
- Nem értem! Beszéljen hangosabban! - Tôi không hiểu! Anh nói to lên!
Az újdonsült igazgató türelmetlen, a sovány sápadtan Ông quản lý trưởng mới xem chừng sốt ruột, tay gác cửa
rázza a fejét, titokzatoskodva karon fogja a főnökét, és mặt nhợt nhạt lắc đầu kín đáo dắt tay thủ trưởng đi vào
bevezeti az uszodába. bể bơi.
Kitár egy ajtót, előttük a medence. És mit látni? A csodás Hắn mở cửa, trước mặt họ là một bể bơi hình chữ nhật
kék négyszög közepén egyetlen sápadt bőrű, emberforma với làn nước xanh tuyệt đẹp. Giữa bể bơi có một cái gì
lény erő1ködik, iparkodik előre a vízben. Nagyokat fúj, đó dạng người da trắng bệch đang loi nhoi đạp nước. Cái
felmerül, lemerül, lassan halad. És a medence két szélén đống thịt đó vừa thở hổn hển vừa từ từ trôi, lúc nổi lên,
két barna bőrkabátos fiatalember az úszó ritmusát lúc chìm xuống. Hai bên bờ bể bơi có hai gã thanh niên
követve kíséri, karjukon fürdőköpeny, törülköző. khoác áo da màu nâu tay cầm khăn bông và áo tắm bông
vừa đi theo vừa chăm chú theo dõi từng nhịp đập của
người đang bơi.
Pelikán nem hisz a szemének. Közelebb megy a kék vizű Pelikan không tin được ở mắt mình. Hắn bước lại gần bờ
medencéhez, szemügyre veszi a békésen tempózó nước xanh nhìn kỹ lại cái đầu hơi phù phù đang nhẩn nha
buldogfejű embert és a parton lépkedő két bőrkabátost. trôi trên mặt nước, rồi hắn lại nhìn hai gã thanh niên áo
da đi trên bờ.
- Van ezeknek jegyük? - fordul Pelikán a sovány - Họ có vé bơi không? - hắn quay lại tay gác cổng gầy gò
gondnokhoz. hỏi.
Annak nem jön ki hang a torkán. Pelikán nem nyugszik. Tay kia há miệng ngáp ngáp như bị nghẹn. Pelikan
nghiêm khắc nói:
- Itt rendet kell csinálni! Világos? Azért küldött engem - Anh phải lập lại trật tự kỷ cương đi chứ! Đồng chí
ide Virág elvtárs. Virag cử tôi đến đây là vì nhiệm vụ này đấy. Anh hiểu
chưa?
Rögtön oda is lép az egyik bőrkabátoshoz. Nói rồi hắn lập tức bước tới bên một gã áo da.
- Szabad a jegyeket? - Anh cho xem vé!
A legény döbbenten néz az újdonsült igazgatóra, aki Gã kia đờ người nhìn ông tân thủ trưởng bể bơi khiến
viszont dühbe gurul. hắn càng thêm cáu.
- Na! Mit bámul?! Elő a jegyekkel! - És a gondnokhoz - Nào, anh nhìn cái gì?! Anh đưa vé đây! - Hắn quay
fordul, pattogva adja ki az utasítást: - Maga pedig sang tay gác cửa truyền lệnh: - Anh cho những người
engedje be a többieket! Az uszoda arra való, hogy a ngoài kia vào! Bể bơi là để cho quần chúng lao động sử
dolgozók ússzanak benne, nem igaz? dụng chứ đâu có phải là riêng của ai.
A gondnok teljesen megzavarodva elmegy, hogy Tay gác cửa cuống cuồng chạy ra mở cửa cho đám đông
beeressze a várakozó tömeget. vào.
A megszólított bőrkabátos előrántja a pisztolyát, és Gã áo da vừa rồi rút phắt súng lục chĩa thẳng vào
ráfogja Pelikánra. Az nevetni kezd: buta vicc. Eltolja a Pelikan. Hắn bật cười nghiêng ngả: Đúng là vớ vẩn. Hắn
revolveres kezet: lấy tay đẩy họng súng lục sang một bên:
- Ne humorizáljon. Jegyet kértem, nem revolvert. - S - Anh đừng đùa nữa! Tôi hỏi vé chứ có hỏi súng đâu. -
odamegy a medencéhez, rákiált a magányosan tempózó, Nói rồi hắn bước tới mép bể bơi lớn giọng: - Này anh
buldogfejű férfira: -Hé, jóember, van magának jegye?! kia, anh có vé không?!
Annak meglassul a tempója. Csodálkozva néz fel a Người kia từ từ chậm lại ngẩng lên nhìn kẻ vừa hỏi mình.
kérdezőre.
Ebben a pillanatban úszóruhára vetkőzött tömeg rohan be Đúng vào lúc đó một đám người mặc quần áo bơi trần
az uszodába, rikoltozik, ugrik fejest, hasast, lábast a trùng trục, la thét ầm ĩ ào vào. Người thì nhảy đằng chân,
medencébe. Fröcsög, hullámzik, pezseg a víz. người thì nhảy đằng đầu, người thì cứ thế nhắm mắt đổ
mình xuống nước. Nước bể bơi sủi bọt bắn tung toé.
A buldogfejű ember felordít: Cái đầu phù bập bềnh dưới nước hét lên:
- Árulás! - Es tátogva fuldokolni kezd. - Phản trắc! - rồi cái miệng há to bắt đầu sặc sụa nước.
A két testőr azon bőrkabátosan beveti magát a vízbe, és Cả hai gã cận vệ để nguyên cả áo da nhảy ào xuống bể,
hősiesen úszva, hónaljánál fogva ráncigálja kifelé a bơi như ma đuổi về phía thủ trưởng rồi xốc nách dìu ông
fulladozó főnököt. Nagy nehezen kihúzzák, a buldogfejű ta lên bờ. Khó khăn lắm chúng mới kéo được đống thịt
pedig, még levegő után kapkodva, megáll Pelikán előtt, ấy lên bờ. Khổ chủ đầu phù hổn hển vừa thở vừa quát
és artikulálatlan hangon ordít csupa egytagú szavakat. toàn những từ ngắn choặt:
- Kém, ló, víz, fej, durr! - Gián điệp, lừa, nước, đầu, bùm!
- Igenis, Bástya elvtárs! - tiszteleg a két testőr, akinek - Thưa đồng chí Bastya (Ba-sơ-cho), rõ! - Hai gã vệ sĩ
bőrkabátjából bőven csurog a víz. đứng nghiêm, rập gót. Nước từ trên áo chúng rỏ dài
xuống đất.
Így kerül vissza Pelikán a börtönbe. Mikor belép a Thế là Pelikan lại quay lại nhà giam. Khi hắn bước vào
cellába, a püspök éppen imádkozik. khám, ông giám mục đang cầu kinh.
- Isten hozott, fiam - néz fel fekete imakönyvéből. - Trời phù hộ đưa con đến đây. - ông bỏ quyển kinh màu
đen ngước lên.
- Meg egy fekete autó, szentatyám - mondja Pelikán egy - Bằng một cái xe đen, thưa đức cha - Hắn tiếp lời vị
kicsit letörve. Gulyás, a biliárdgolyófejű detektív kajánul giám mục với vẻ chán nản. Gã thanh tra đầu chọc Gulyas
odaszól: lên tiếng giọng đắc chí:
- Hát ismét köztünk, Pelikán? - Thế là lại về với nhau hả Pelikan?
- Kuss - mordul rá a gátőr. - Kint azért épül a rendszer - Câm! - gã canh đê gằn giọng - Không có tao thì ở ngoài
nélkülem is. kia chế độ vẫn được xây dựng như thường.
- Már nem sokáig - heherészik a detektív. -Jönnek az - Cũng chẳng lâu đâu - Gã thanh tra cười he hé. - Người
amerikaiak. Mỹ người ta đến ngay bây giờ.
Pelikán felmászik a volt helyére, onnan szól vissza: Pelikan trèo lên giường mình nói lại:
- A Truman úr fehér lovon... - Azt lesheti. - Ông Truman trên lưng ngựa trắng hả. Thế thì cứ đợi
nhé.
(Pelikan trả lời như thế để sách mé, vì trong chế độ trước
45 quốc trưởng là Horthy Miklos (Hốc-ti Mik-lốt) hay
cưỡi ngựa trắng trong các dịp trọng đại. AK)
- Mondok mást is - furkálja Gulyás. - A haverjai egymást - À này, còn có tin khác nữa kia - Gulyas tiếp tục châm
vágják a sittre... chọc - Ở ngoài kia bạn bè anh đang cho nhau vào tù hết
rồi...
A fondor beszéd hat, a gátőr lenyúl, elkapja a kopasz Lời nói thâm hiểm có tác dụng ngay. Gã canh đê nắm cổ
grabancát: áo tay cựu thanh tra:
- Ezt honnan veszi? - Sao mày biết?
- Tudom, amit tudok - fickándozik az it markában. - Biết thì biết chứ sao. - Gã trọc giãy giụa.
- Nyugalom, fiam - inti meg a fölöttébb ideges Pelikánt a - Bình tĩnh con - Ông giám mục can ngăn Pelikan đang
püspök. - Lesz magyar feltámadás. quá lo lắng. - Rồi thì trước sau thì dân tộc Hung cũng hồi
sinh như xưa.
- És ez olyan biztos, püspök úr? - fordul félé Pelikán. A - Có chắc như thế không, thưa cha? - Pelikan quay sang
válaszból mély meggyőződés zeng: hỏi. Câu trả lời của ông giám mục sang sảng đầy tin
tưởng:
- Ide figyelj, fiam! Gondolj csak bele: a mi keresztény - Con ơi, con cứ nghĩ xem: Đạo thiên chúa của chúng ta
anyaszentegyházunk idestova kétezer éves, a mi apostoli tới nay đã có hơn hai nghìn năm, lịch sử đất nước ta tính
királyságunk több mint ezeréves, a ti rendszeretek meg... cũng hơn nghìn tuổi, chế độ của các con thì mới...
Nem folytatja. Pelikán könyörögve: Ông ta không nói nữa. Pelikan nói giọng khổ sở:
- De hát nem lehet valaki rögtön ezeréves ... - Thế nhưng có ai vừa đẻ ra đã nghìn tuổi đâu...
A püspök vállat von, aztán kérdi: Ông giám mục chỉ nhún vai rồi hỏi:
- Mi lesz ma ebédre? - Válasz nincs, tehát lekopogtatja a - Hôm nay ăn trưa gì nhỉ? - Không có ai trả lời nên ông
kérdést a fűtőtesten. gõ lại câu hỏi vào ống sưởi.
Visszakopognak: Có tiếng gõ lại.
- Tarhonya - mondja fanyarul. - Mỳ viên - Ông ta rầu rĩ nói.
- Tarhonya - ismétli Pelikán. - De hát nem ehetjük meg a - Mỳ viên - Pelikan nhắc lại. - Nhưng không nhẽ thế mà
tyúkot, amely holnap aranytojást fog tojni. - Ezen thịt con gà mái ngày mai đẻ trứng vàng cho ta sao. - Hắn
eltűnődik, és szinte magában mormolva folytatja: ngẫm nghĩ điều vừa nói rồi lẩm bẩm một mình:
- Bár egyszer szívesen megkóstolnám, a fene egye meg. - Mẹ kiếp, thế nhưng được nếm thử một miếng thì cũng
De csikorog a zárban a kulcs, a már ismert fegyőr dugja đã. Nhưng có tiếng loạch xoạch trong ổ khoá. Tay quản
be a képét. giáo quen thuộc ngó đầu vào.
- Pelikán József! - Pelikan Jozsef!
- Jelen. - Có.
- Szedje a cuccát! - Lấy tư trang ra đây!

Você também pode gostar