Você está na página 1de 62

Lê Minh Hà - Cổ Tích

Lê Minh Hà - Cổ Tích

CỔ TÍCH CHO NGÀY MỚI


tập truyện

LÊ MINH HÀ

Trên Kệ Sách – Da Màu


kesach.org - 2009
Lê Minh Hà - Cổ Tích

CHÂU LONG

'... Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu


Nghe dịu nỗi đau...'

Tạ Hữu Yên

Châu Long bước mải. Bóng xiêu xiêu theo chiều nắng hắt. Cái thúng cắp bên hông,
nhẹ tênh. Còn nhẹ hơn cả cái ngày nàng từ nơi ấy ra đi. Ngày ấy, nơi ấy, nàng đã lẳng
lặng nghe lời chồng dặn, lẳng lặng đặt vào giữa mớ xống áo trong thúng mấy nén bạc
lưng vốn ban đầu.
Châu Long bước mải. Gió ngược. Đôi vạt thắt quả găng luấn quấn bay. Càng gần
tới nơi bước chân Châu Long càng chậm lại. Như kiệt lực. Dấn tới gốc đa đầu làng,
Châu Long buông người, kéo cái thúng nhỏ sát vào mình, bỏ nón. Chiều muộn. Người
làm đồng đã về hết cả rồi. Chỉ còn đôi bóng bò gặm nắng xa xa. Phía con sông đào xưa.
Phía xưa nàng còn được ngày ngày tằm tang cùng mẹ và chiều chiều xuống sông gánh
nước, cúi mặt soi bóng mình, biết phía cuối dòng trong đám trai làng đang hò hét ngụp
lặn om sòm kia có một đôi mắt... những đôi mắt...

Có con bê nào gọi mẹ. Nghe rối cả lòng. Nước mắt nàng ứa ra. Châu Long điên dại
nhìn trời. Chao ôi! Mười năm khốn khổ! Chao ôi! Nàng sẽ nói gì đây với thầy mẹ khi
trở về vào lúc nhập nhoạng này như một cái bóng tha hương?

*
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Châu Long đi từ lúc non trưa, sau khi đã ngồi lặng lẽ cả nửa buổi nghe ông lý cùng
mấy vị quan viên bàn bạc cãi vã. Họ hỏi gì Châu Long cũng bằng lòng. Dựng rạp đãi
đằng làng nước? Nàng gật. Lên phủ rước Lưu Bình? Nàng gật. Khi tất cả hỉ hả ra về,
nàng thu vén xống áo bỏ vào thúng, cẩn thận kéo tấm rào rấp ngõ, rồi đi. Chồng nàng
đã dặn nàng như thế ngày ấy. Mười năm có lẻ. Đến bây giờ.

Mười năm. Mười năm nàng thức khuya dậy sớm chạy chợ nuôi Lưu Bình đèn sách.
Sau này, người đời sẽ thi vị hóa quãng thời gian trớ trêu ấy của đời nàng. 'Châu Long
quay tơ. Lưu Bình ngâm thơ. Vườn sau chim giục giã. Nhìn ra hoa vừa nở.'1 Không
phải vậy. Không có gì là thi vị trong cảnh những người đàn bà dặm dụi nuôi chồng.
Không có gì là thi vị khi nàng gồng gánh ra đi từ tối đất mong mua may bán đắt. Không
có gì là thi vị khi nàng bấm mười ngón chân tê dại trên những con đường sống trâu
ngày mưa, đổi gánh trên vai. Không có gì là thi vị khi nàng đi như bị lôi về phía trước
bởi đôi quang nặng chùng sát đất giữa trưa ngày xuân cạn. Ai biết được nàng nghĩ gì
khi ấy? Mà biết, liệu người đời sau này có kể không?

Nàng đi sâu vào cái ngõ nhỏ kẹp giữa bờ rào ruối. Có mùi nước đọng. Mùi đất
vườn dưới sương. Cả nhà đã xong bữa lúc nàng chạm tay vào dại cửa. 'Ô chị Phủ!' Đứa
em gái buột miệng ngỡ ngàng. Châu Long về bất ngờ quá. Cung cách về cũng lạ lùng.
Ông đồ đưa mắt cho vợ với đứa con gái út. Cái nhìn ấy làm Châu Long chua xót. Nàng
không thuộc về thế giới này. Nàng thuộc về đâu?

...Đứa em gái đã hạ cái nia kê đòn thái dâu cho tằm ăn đêm. Bà đồ ngồi nhai miếng
vỏ quạch, nhặt thêm mảnh cau khô bỏ miệng, thở dài. Bà thuộc tính chồng, không dám
gặng gì con. Châu Long run run: 'Nhà con dặn về ngay khi được tin mừng... Tiện đường
con tạt về thăm thầy mẹ. Vài hôm rồi con xin phép thầy mẹ con về...' 'Về đâu?' 'Về
đâu?' Người mẹ không thể nào biết được tiếng gào đau khổ ấy trong lòng đứa con. Xuất
giá tòng phu. Nàng sẽ về lại với Dương Lễ, ông quan huyện năm xưa đã từng làm bà
hết sức đẹp lòng về món tiền cheo nộp làng lúc xin đón Châu Long. Bà hiểu thế và
mừng cho con, biết phận rồi sẽ qua những ngày vất vả. Tình thương con của những
người mẹ bao giờ cũng đơn giản thế.

Người cha nhìn đứa con mới về, đau thắt cả lòng. Nó đấy, đứa con gái mỏng mày
hay hạt nhất làng. Ông đã bao lần ngồi trên bộ phản này nhìn ra ngõ nơi nó tha thẩn
1
: Thơ Lưu Trọng Lư
Lê Minh Hà - Cổ Tích

trông em và chốc chốc chạy ra chạy vào xua đàn gà lười kiếm ăn xa chỉ chực bới tanh
bành bếp núc. Ông đã bao lần bần thần trong niềm tiên cảm về số kiếp khốn khổ của
đứa con này. Lông mày dài. Đôi mắt mới tý tuổi đầu đã có cái nhìn xa vắng. Cánh mũi
thanh. Môi mong mỏng hồng hồng. Cần cổ cao cao. Có cái gì quá mong manh ở nó,
một đứa con gái nơi vườn ruộng.
Khi Dương Lễ cho người đem giầu cau đến hỏi Châu Long, ông đã ngần ngừ rồi
gật. ừ thì con ông làm thiếp, nhưng dù thế thì có lẽ vẫn tốt hơn cho nó. Ông biết dáng
dấp tính tình con ông có cái gì đó lệch nhịp đời thường những người đàn bà chỉ quen
đồng áng. Chịu phận thiệt thòi này để được yên ổn về sau. Đâu có ngờ...

...Một bận ông đồ khoác tay nải đi thăm bạn cũ, sững sờ thấy con gái dọc đường về
chợ. Sau đó, bao lần ông kiếm cớ đi chơi, đứng nép ở một cái lều chợ từ xa nhìn con gái
tíu tít giữa một lô thúng mủng bán bán mua mua, mà mắt vẫn nguyên cái nhìn xa vắng.
Đã bao lần ông dừng sững giữa đường... Cặp thúng chồng đôi trĩu hai đầu quang lắc
theo mỗi bước Châu Long, lôi giật con ông nhao về phía trước. Ông không thể giáp mặt
con. Ông không thể giúp gì nàng. Con ông đã làm đúng chữ 'tòng phụ tòng phu' ông
dạy. Bây giờ, Châu Long ngồi trước mặt ông. Ông cảm được cái nhìn cầu khẩn của con,
dù nàng khuất mình trong vũng tối, nhẹ lời:
'Con về chơi thế này thầy mừng lắm. Giờ thì thu xếp đi nằm sớm cho đỡ mệt.
Khuya em nó còn phải dậy cho tằm ăn.'

Đứa em gái mừng có chị về, nhưng chả biết nói gì. Ngày Châu Long về nhà
chồng, nó còn bé tý. Giờ Châu Long hỏi gì nó trả lời câu đó, rồi cười. Nó sẽ cười được
đến bao giờ?
Châu Long không tài nào ngủ được. Hơi ấm từ tấm thân con gái mười sáu tuổi của
đứa em làm nàng rưng rưng ngột ngạt. Lâu lắm rồi nàng không nằm chung với ai. Châu
Long rón rén ngồi dậy, lại bàn nước của cha khêu ngọn bấc lụn rồi bước nhẹ về phía
buồng tằm. Nàng vén tấm mành mành. Từ những nong tằm đặt trên giá nổi dần lên
tiếng gì rất khẽ. Tằm thức. Châu Long kéo cái thúng đại đựng đầy lá dâu đã thái, rắc
đều. Tằm này sắp lên né được rồi. Đời tằm... Cũng hệt đời nàng... Rút ruột...

Tiếng chó sủa sương vọng lại từ đầu ngõ, cấm cảu, khan khan. Châu Long sực
tỉnh. Đĩa dầu lụn bấc từ bao giờ chỉ còn như hạt đỗ chập chờn. Nàng đã ngồi trong
buồng tằm lâu lắm rồi. Cữ này chắc làng nước đã cờ quạt võng lọng rậm rịch. Cữ này
chắc ông lý đã dẫn quan viên tới nhà xin rước nàng lên võng đi đón Lưu Bình. Phải,
dân làng ai cũng biết Lưu Bình đã mười năm ăn ở với nàng. Chắc tất cả đang ngỡ ngàng
trước tấm rào rấp ngõ.
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Chắc chàng Lưu cũng sẽ như người đứng trên tổ kiến khi không thấy người vợ tấm
mẳn trong đám võng lọng đón đưa. Ôi Lưu Bình! Người đàn ông nàng đã chăm bẵm
suốt mười năm như chăm chồng. Người đàn ông đã răm rắp nghe lời nàng hẹn 'Anh
chưa thi đỗ thì chưa động phòng.'1 Người đàn ông mà nàng đã đêm đêm cố thức xay giã
giần sàng để giục thầm đừng buông sách. Nàng sẽ nói gì với người đàn ông ấy, với
chàng Lưu khi gặp lại nhau? Chữ nghĩa là cái gì mà có thể giữ tay chàng bao nhiêu đêm
chỉ vịn vào khung cửa buồng nàng rồi dừng ở đó. Là cái gì mà nó có thể trói chàng trên
ghế lúc nàng dội nước ùm ùm ngoài giếng, dưới ánh trăng rười rượi, mong dập đi hơi
nóng hừng hực bồn chồn thiêu đốt thân nàng. Chữ nghĩa là cái gì mà buộc nàng phải
ngần ấy năm cơ cực? Là cái gì mà có thể làm Dương Lễ xa nàng dễ dàng đến thế?
Nhưng Dương Lễ có phải là chồng nàng? Chàng đã cưới nàng về làm thiếp. Làm
thiếp nghĩa là không phải làm vợ. Chỉ để chàng say mê? Nàng không có sức vóc của
người vợ thứ của chàng. Nàng không có cái đoan chính sắc sảo của người vợ đầu của
chàng. Nàng có nét gì từa tựa một loài lan quý. Chàng đã nói thế với nàng. Nhưng
chàng không giữ nàng lại để chăm chút cho nàng như thường ngày chăm chút vườn lan.
Chàng đã cậy nàng đến với Lưu Bình. Nàng là một thứ phương tiện đẹp và sẵn để
chàng bày tỏ tình bạn với đời.

...Người ta sẽ kể về tình bạn cao cả của chàng và về tình chồng vợ thánh thiện giữa
chàng và nàng. Liệu có ai biết rằng niềm tự hào vì được chồng tin cậy đến nhường ấy
nàng đã để mất rất nhanh sau đó. Thay vào đó là nỗi ngờ vực đắng cay, là phẫn nộ. Ôi
những người đàn ông! Người đời! Tại sao họ lại phải tự khẳng định mình bằng nỗi đau
của người khác. Dương Lễ là một bến nhiều thuyền. Nhưng nàng, nàng chỉ một thuyền
một bến. Nàng chỉ có một chàng. Tại sao chàng không giúp Lưu Bình một cách bình
thường. Không có con đường giản dị nào để cho cảm thông và yêu thương có thể từ tấm
lòng này tới với một tấm lòng khác hay sao? Tại sao chàng phải nghĩ ra cái việc sỉ nhục
Lưu Bình trước khi chìa bàn tay đỡ bạn. Không, chàng cũng không phải chìa tay.
Chàng chỉ đơn giản đẩy nàng ra. Tại sao chàng nỡ đặt lên đôi vai mảnh của nàng cái
nghĩa vụ nhọc nhằn đến thế, nghĩa vụ của tình chồng vợ, bạn bè, nghĩa vụ phải trở
thành huyền thoại cho những kẻ rỗi việc thích trầm tư và đúc kết các bài học ứng nhân
xử thế.

...Người đời sau sẽ kể rằng nàng thức đêm thức hôm xay giã giần sàng chuẩn bị
hàng họ đi chợ sớm để nuôi Lưu Bình. Ngần ấy năm ròng. Để thúc giục chàng Lưu kiên
tâm đèn sách sớm khuya. Có thật. Nhưng người ta sẽ không kể rằng nàng đi nằm muộn
chẳng qua còn để trốn những giấc mơ đàn bà. Những giấc mơ ấy hành hạ nàng, làm
1
: Thơ Nguyễn Bính
Lê Minh Hà - Cổ Tích

nàng khủng khiếp khi nghĩ về mình. Trong mơ nàng đã quằn quại giữa vòng tay Dương
Lễ, giữa vòng tay Lưu Bình, hệt như cái cảnh nàng đã thấy vào một chiều xa xưa đi hái
dâu, hồi còn con gái, còn được ở nhà cha mẹ. 'Tình trong giấc mộng'. 'Muôn vàn cũng
không.' 1 Biết bao đêm giật mình tỉnh giấc, nghe trống ngực đập muốn vỡ cả màng tang,
nàng đã nhận ra mình ơ hờ với mọi sự, mọi giác quan chỉ chú mục vào tiếng trở mình
của người đàn ông đang nằm ở gian ngoài. Giá chàng cứ đẩy cửa buồng nàng... Giá
chàng trằn trọc nhiều hơn... Thì có lẽ... Thì nàng đã tung hê tất cả.

Nàng đã thổi xôi luộc gà lên đình cầu khấn cho chàng thi đỗ, cho nàng có ngày
được buông gánh đời mà sống tiếp những ngày tháng cũ. Nàng đã tìm thuê người đỡ
gánh cho chàng trên đường ứng thí, đã dốc tất cả lưng vốn đời mình ký cược vào chàng.
Và chàng đã đỗ kỳ này. Kỳ này, nàng sẽ được trở về làm vợ lại. Kỳ này, chàng sẽ áo
mũ xênh xang đến thăm Dương Lễ trả hận bát cơm cà muối khi xưa. Cái hận bị người sỉ
nhục có thể tan. Nhưng lúc đó, chàng sẽ phải biết tới một nỗi hận khác, hận chịu ơn
người. Hận ấy, liệu có khi nào chàng trả nổi? Ôi Lưu Bình! Ôi Dương Lễ! Tại sao các
người phải hành hạ mình hành hạ nhau để bày tỏ bản thân với người đời? Tại sao phải
sỉ nhục nhau để làm cái việc hoàn toàn vô nghĩa là tăng giá sự hy sinh? Tại sao phải
chờ người sỉ nhục mới cố công vượt lên mình để tự mở mày mở mặt. Người đời sau sẽ
kể chuyện này với biết bao khâm phục và ngưỡng mộ. Nhưng ích gì? Những huyền
thoại có ích gì?

Ngoài trời sương rụt rè tan. Ông đồ đánh tiếng với con bằng tiếng ho thúng thắng.
Châu Long hạ tấm mành mành che buồng tằm, bước ra sân. Mùi buồng tằm ngai ngái
khai khai tan loãng vào trong hơi đất vườn ban sớm, hơi rơm ẩm còn chưa đánh đống ở
đầu hồi. 'Giờ này chắc người ta đã sắp lên tới tỉnh rồi.' Như thế chỉ trưa nay Lưu Bình
sẽ biết chuyện vợ bỏ nhà đi. Ngày mai thì Dương Lễ sẽ biết. 'Ta còn có thể ở lại nhà
thầy mẹ đến bao giờ?' Những tính đếm tỉnh táo làm lòng Châu Long tê dại.

Liền mấy chiều oi ả. Bà đồ kêu đau đầu không cất mình dậy nổi. Đứa em gái còn ở
ngoài bãi hái dâu. Châu Long bần thần dừng bước trước cửa buồng mẹ... Nàng chẳng
bụng dạ nào giáp mặt ai vào lúc này. Làng xóm đã loáng thoáng đồn thổi chuyện cô
Châu Long con ông bà đồ về âm thầm như bị chồng đuổi. Bạn gái ngày xưa con bồng
con dắt, chẳng thấy ai đến thăm nàng. Đã hẳn. Khi nàng chưa tới thăm ai. Dù gì thì với
họ nàng vẫn đang là 'chị Phủ'. Ôi chao là cái nông nỗi của kẻ được người tưởng hơn
người.

1
: Chinh phụ ngâm
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Tiếng cái giường tre bà đồ nằm cọt kẹt khiến Châu Long không thể chần chừ. Nàng
với cái nón ngần ngại bước ra sân định đi hái nắm lá cúc tần về sao vàng cho mẹ bóp
trán. Thì vừa lúc từ đầu ngõ ruối đưa vào râm ran tiếng thưa tiếng dạ. Châu Long bước
giật vào buồng. Ông đồ tay cầm cái xe điếu nhìn ra nắng, sẽ giọng với con: 'Anh Phủ
Dương Lễ. Ai như... Kìa... Quan Hoàng giáp Lưu Bình.'

...Hai người đàn ông áo mũ chỉnh tề tiến vào đứng chắp tay bên cửa. Dương Lễ
cung kính và rành mạch: 'Con xin thầy mẹ đến đón nàng Châu Long trở lại nhà.' Ông đồ
cúi nhìn cái điếu bát, khó nhọc gật đầu. Phải! Nơi đấy mới là nhà của con ông.
Châu Long bước ra, trang nghiêm và xa vắng. Hai người đàn ông chợt hoang
mang. Lưu Bình vừa từ oi ả vào mà mặt tái. Lần đầu tiên Châu Long nhìn thẳng vào
mắt Dương Lễ. 'Đây là chàng.' Lần đầu tiên Châu Long nhìn thẳng vào mắt Lưu Bình.
'Đây là chàng.' Có đáng gì không? Mười năm sống ấy? Ôi những người đàn ông! Nàng
đã làm cho họ nổi tiếng với muôn đời ở đất nước này. Nhưng tình bạn kỳ quặc của họ
cũng làm nàng nổi tiếng. Châu Long biết rằng cái gánh đời đã nâng lên vai sẽ không
bao giờ nàng có thể buông. Nàng sẽ phải gồng vai gánh tiếp cho đến lúc nhắm mắt xuôi
tay. Bởi vì người đời muốn thế. Nàng biết nàng đã trở thành một biểu tượng. Không cần
trầm mình. Không cần hóa đá. Mười năm trớ trêu của đời nàng sẽ trở thành huyền thoại
để người đời kể sau này.

Vào cái lúc cúi chào cha mẹ rồi lặng lẽ đi qua hai người đàn ông bước ra sân nắng
để lại ra đi, thật thì lòng Châu Long hoàn toàn trống rỗng. Nàng không ý thức được
rằng với những kẻ buộc phải trở thành biểu tượng huyền thoại kể về mình chỉ là một
niềm an ủi vô cùng bé nhỏ, tràn đầy đau đớn...

...Đêm đầu tiên sau mười năm có lẻ cách xa, Dương Lễ đã hết sức thất vọng về
nàng. Nỗi thất vọng nhanh chóng trở thành mối ngờ vực dai dẳng. Ngờ vực tàn phá
chàng, đến nỗi chàng không nhận ra niềm căm giận ở Lưu Bình không hề mất đi mà
còn được chàng Lưu gia cố bằng tất cả những bẽ bàng của một mối tình chua chát.
Dương Lễ cũng không hề nhận ra nỗi tuyệt vọng cay đắng ở Châu Long. 'Ê chề đời
thoảng vị cơm ôi.'1 Nhưng chính nàng, Châu Long, nàng cũng không gọi tên được cảm
giác của mình, mà cũng không còn muốn biết rằng cái ê chề ấy cũng đầy ứ trong lòng
hai người đàn ông đã đi qua đời nàng.

1
: Thơ Huy Cận
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Tuy nhiên, vào lúc đó, người đời đã bắt đầu kể về tình bạn cao cả và cảm động
giữa Dương Lễ Lưu Bình. Và vì không dễ gì được người đời buông tiếng nên cả hai
chàng đều không ai đả động đến những chán chường tuyệt vọng hay phẫn nộ của mình.
Lưu Bình được bổ về một huyện thuộc quyền trị nhậm của Dương Lễ. Hai người đàn
ông thường gặp nhau, tương ái và tương kính đúng như người đời chầu chực để kể tiếp
huyền thoại về họ.

Chỉ có điều Dương Lễ thôi không mê mệt lan quý như xưa. Nếu không có Châu
Long để mắt vườn lan của chàng chắc đã chết hết. Ngày ngày Châu Long vào ra vườn
lan. Ai cũng yêu quý nàng, kể cả hai người vợ cùng nàng chia xẻ một tấm chồng chung.
ở nàng đã dần dần hiện rõ cái vẻ heo héo thường có ở những người đàn bà không chồng
hay tuyệt đường sinh nở. Nhưng nàng lúc nào cũng tươi cười, lặng lẽ, dịu dàng. Dáng
dấp của nàng làm ai thoạt gặp cũng thấy lòng không dưng mà tái tê.

Huyền thoại không kể rằng Lưu Bình ít lâu sau đó cưới hai chị em con gái một nhà
phú hộ. Hai người vợ chàng Lưu người nào cũng đảm và đều sinh cho chàng mấy mặt
con. Huyền thoại cũng không kể rằng sau đêm đoàn viên Dương Lễ không bao giờ
bước chân vào buồng Châu Long nữa.
Nhưng đó là sự thật.
Ai có thể ân ái với một biểu tượng?
Ôi Châu Long!

2: 2000 - 6. 2000
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Ngày xưa, cô Tấm...

Tấm mệt mỏi đặt lưng nằm lại, nhắm mắt ơ thờ. Cám đi rồi. Còn lại những gác
những lầu, những cột kèo, những hành lang vắng âm âm theo mỗi bước chân. Và đêm.
Tối. Nặng. Như bùn. Như cỏ ướt. Hoang vu.
Ngực Tấm cồn lên. Tấm nức khan. Tiếng nức của người không thể nào khóc được.
Trống cầm canh dội. Tấm biết, vậy là với nàng thế đã một đêm.

Đã như thế lâu rồi. Đã bao đêm Tấm loanh quanh kiếm việc gì làm cố tình trốn
giấc. Nàng sợ. Sợ phải một mình đối mặt với Cám. Sợ những lúc hổn hển gỡ mình khỏi
cơn mơ, vã mồ hôi lạnh, mà không thể gọi ai, không thể gọi nhà vua, không thể gọi thị
nữ. Nàng sẽ một mình chong mắt vào đêm tối, thở dốc, cổ khô khát. Nỗi kinh hoàng
chế ngự nàng, ngày này qua ngày khác. Giống như một thứ bệnh âm không thể nào
chữa khỏi, làm người ta kiệt lực mà vẫn đành phải tập chung sống với nó.
Đã như thế lâu rồi. Mỗi đêm, Tấm tưởng như mình đã thản nhiên lắng nghe những
tiếng động tắt đi ở đầu đằng kia hành cung, nơi bấy lâu nay nhà vua một mình một long
sàng, đợi lúc phải vào giường, đợi thị nữ tắt đèn, đợi Cám. Chưa bao giờ Tấm mơ thấy
Cám trong hình hài nguyên vẹn. Lúc nào cũng chỉ có cái đầu. Cái đầu Cám với thần
thái của người sống, vẫn mắt môi, vẫn vành khăn vấn, vẫn thịt da tươi mởn như trước
lúc chết, lềnh bềnh trong bóng đêm. Đáng sợ. Bởi quá đỗi kỳ quặc.
Bao giờ cũng vậy, trong mơ chỉ có một mình Cám nói. Trong mơ, Tấm tê liệt vì
kinh hoàng và căm giận. Và giọng Cám, ai oán, ảm đạm sẽ như tiếng tinh nứa siết vào
nhau làm Tấm choáng váng, đau buốt suốt cả ngày sau. Đó là một cảm giác thuần túy
thể chất. Nó làm Tấm rã rời. Từng đêm... Từng đêm...
Lê Minh Hà - Cổ Tích

'Chị Tấm! Sao chị nỡ đọa đày mẹ con tôi đến thế. Sao chị nỡ bày ra cho mẹ con tôi
cái chết tức tưởi thế này. Đã đành mẹ con tôi quá ác với chị. Nên nỗi oán oán chất
chồng. ác giả ác báo. Đành rồi. Nhưng chị hãy nhìn tôi! Đâu thịt da tôi? Đâu xương
cốt tôi? Tôi đâu dám nói gì. Song chị có bao giờ thử nghĩ thiên hạ mai sau sẽ nói gì?

Mắt Cám buồn rượi. Cái đầu Cám lắc lư trong không khí. Chỉ có độc cái đầu. Tấm
nhớ lúc đó Tấm đã hét lên. Những cây cột chạm trổ sơn son thếp vàng trông đường bệ
và tráng lệ là thế ban ngày mà lúc đó thì đứng sững như người trong một dáng vẻ tăm
tối đầy hăm dọa. Không có nhà vua nằm cạnh Tấm. Chỉ có hai thị nữ rón rén bê đèn
bước vào, rón rén vén rèm nâng Tấm dậy, rón rén nâng chén nước mời Tấm nhấp môi.
Chén nước vối Tấm hằng quen và vẫn ưa dùng ngay cả lúc đã vào sống nơi cung cấm
tỏa mùi hương lạc lõng.

'Chị Tấm! Mẹ tôi gục chết bên hũ mắm làm từ thịt xương tôi. Chị có biết mình đã
làm điều thất nhân tâm đến độ rồi không? Người mẹ nào cũng là hổ dữ khi bao bọc con
mình. Chỉ khi ấy! Sao chị nỡ bắt một người mẹ phải ăn thịt con. Chị nghĩ gì khi lóc thịt
xương tôi làm mắm. Tôi đã bao lần cố công triệt thân tâm chị trên cõi sống này. Đã
giết vàng anh. Đã chặt xoan đào. Đã đốt khung cửi. Đã không thành. Chị tưởng làm
được điều ấy với tôi ư? Xấu tốt gì tôi với chị cũng là người. Xương thịt là do cha mẹ
sinh thành. Nhưng trời đất định đoạt số phần. Việc của đất trời, người không làm
được...'

Cám im. Mắt ủ rũ nhìn sâu vào đêm tối, lướt qua mặt Tấm, ơ hờ. Cái đầu lắc lư
như không thể nào cố định nổi, bập bềnh trôi trong đêm xôm xốp và rất dính. Tấm cố
hình dung phần thân thể Cám từ cổ trở xuống. Không thể. Cái tươi mát thịt da xưa của
Cám chính tay nàng đã băm vằm. Không phải để triệt hậu họa, cốt hả căm hờn. Phải!
Cốt hả căm hờn.

Nàng đã tích hờn căm ấy từ bao giờ? Từ buổi chiều ngồi bên gốc gạo âm thầm
khóc vì bị Cám trút mất giỏ cá chăng? Mất giỏ cá, mất yếm đào! Có làm gì cái yếm đào
khi nàng biết rõ các anh trai làng chỉ ưa nhìn ngang khe yếm các chị chiều chiều lúi húi
rũ cỏ rửa bèo ở ao đình! Có làm gì cái yếm đào khi nàng ngày ngày phải xắn váy mốc
theo trâu đồng sâu đồng cạn!
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Nàng tích oán thù từ buổi ngồi bên bờ giếng khóc bống con ư? Bống con tội
nghiệp. Nhưng bống có thương nàng thì cũng tựa con trâu Ngổ vẫn được nàng ngày
ngày chăm bẵm thương nàng. Lúc nàng mất bống, nàng chỉ mới biết khóc tủi thân tủi
phận.
Biết bao lần Tấm dằn vặt mình. Bao giờ, tự bao giờ nàng để oán thù kết lại? Bây
giờ, năm tháng qua đi, nàng hiểu ra rằng nỗi căm hận mẹ con Cám đã bùng lên trong
lòng nàng vào đúng buổi chiều gió ấy. Xóm làng xôn xao hội lớn. Trống thúc. Loa
vang. Nàng gục mặt trên thúng thóc trộn lẫn gạo vừa giã, nước mắt lã chã hai hàng. Vì
bất lực. Vì khao khát được đổ ụp lên đầu hai mẹ con Cám tất cả những ê chề nàng đã
chịu đựng bấy nay. Và nhiều hơn thế nữa! Nhiều hơn thế nữa! Hơn thế nữa! Đến mức
nàng không hình dung nổi. Nhưng nàng nhớ buổi chiều gió ấy, buổi chiều nàng để hận
thốc lên. Khi ấy, Tấm không hề biết rằng hận đã nhen thì phải trả.

'Chị Tấm! Chị thử nghĩ mà xem! Tôi có ác thì tôi cũng đâu có tự tay giết chị. Tôi
lấy mất của chị giỏ cá. Tôi gièm chị với mẹ tôi. Tôi làm cho chị phải ăn roi vọt. Nhưng
tôi không giết chị. Tội của mẹ tôi, tôi phải gánh. Sao chị không cho đuổi tôi về. Như thế
đã đủ ê chề sau những ngày tháng tiền hô hậu ủng dập dìu ngựa ngựa xe xe. Sống giữa
sự khinh khi dè bỉu của xóm làng, không chồng không con, không còn gì cả, còn dám
ngửa mặt nhìn ai! Vậy cũng cầm bằng như chết! Sống vậy đã chắc gì tôi còn dám sống!
Sao chị không làm như thế? Dù sao chị cũng có lại tất cả rồi.
Tôi giết vàng anh. Tôi chặt xoan đào. Tôi đốt khung cửi. Nghĩ cho cùng cũng chỉ là
để xua đuổi tà ma. Chị lúc ấy là ma. Ma làm sao ở được với người. Ma làm sao chung
chồng được với người. Chị Tấm! Tôi chưa bao giờ giết chị!'

Trong cơn mơ, Tấm thấy mình điên giận vì không sao cất nổi tiếng để mắng vào
mặt Cám. Cám ủ rũ buông lời. Không ra buộc tội. Không ra thanh minh. ừ phải! Cám
chưa bao giờ giết Tấm. Cám chỉ lấy mất hoàng tử của Tấm. Nhưng có người sẽ không
làm như Cám vào lúc đó chăng? Người ta vẫn thường bai bẻ mấy chữ 'duyên em tình
chị'...
Những giấc mơ làm Tấm mệt mỏi và đâm bẳn gắt. Tính khí Tấm sau lúc về sống
lại nơi cung cấm làm ai nấy đều lo sợ mỗi lúc phải gặp nàng thưa thốt điều gì. Cả chồng
nàng, đấng quân vương oai trùm thiên hạ. Chàng hoàng tử say đắm và quả quyết ngày
xưa giờ là ông vua lúc nào cũng buồn rầu và có cái nhìn u ám. Nỗi buồn phủ chụp trên
thân dáng nhà vua bây giờ sao khác quá nỗi buồn thuở nhà vua cất tiếng 'vàng ảnh vàng
anh - có phải vợ anh - chui vào tay áo.' Tấm bây giờ không còn là chim hoàng anh nữa,
và lòng nhà vua lúc này với Tấm còn hẹp hơn ống tay áo năm nào. Nhà vua không mấy
khi nhìn nàng, không mấy khi nói với nàng. Thần trí nhà vua đôi lúc nhuốm đầy vẻ gì
làm Tấm không hiểu nổi và vì thế mà nàng càng hay nổi cơn giận dữ không chừng.
Lê Minh Hà - Cổ Tích

'Chị Tấm! Chị có biết vì sao chị lại ra nông nỗi vậy? Dù gì thì tôi với chàng cũng
có với nhau những ngày những đêm nồng mặn, dẫu chàng vẫn thương nhớ chị khôn
nguôi. Nhưng bây giờ, chị hãy thử nhìn xem, chàng ra thế. Thần sắc của chàng là thần
sắc của người đã chán ngán thế gian này. Là thần sắc của kẻ bạc nhược. Kẻ bạc nhược
sẽ phải đi tìm nơi cho linh hồn rũ liệt của mình nương tựa. Vào đâu? Trăng lên hoa nở!
Rượu! Đàn bà! Nhưng sẽ không phải là chị. Bởi vì chàng đâu có còn thiết tha với sự
đời. Kẻ đã không thiết sống thì không còn gì phải sợ hãi, không bao giờ đi tìm sự gần
gũi bên một kẻ giết người. Tội ác bao giờ cũng làm người ta ghê sợ...'

Khi nói những lời dao cứa đó, Cám không hề lộ vẻ đắc thắng. Mắt Cám tràn ngập
nỗi buồn. Cám cúi nhìn. Nhìn gì? Bên dưới cái đầu của Cám nào còn có gì ngoài đêm
quánh đặc. Rất nhiều đêm sau này, trong lúc nằm chờ cơn mơ dữ có Cám hiện về, Tấm
đã bàng hoàng nhận ra rằng lời Cám nói trong giấc mơ đêm đó đã làm nàng đau đớn
nhất. Nỗi đau, không còn được cưu mang bằng niềm thương thân hay căm hận, như một
thứ cường toan gặm mòn năm tháng, gặm mòn đời người.

'Chị Tấm! Mẹ con tôi ác. Mẹ con tôi đã chịu quả báo ngay trong kiếp này rồi.
Nhưng ngẫm cho cùng, cái ác của mẹ con tôi cũng chỉ là cái ác bình thường. 'Bao giờ
bánh đúc có xương - Bấy giờ dì ghẻ mới thương con chồng...' Chị nhớ chứ? Chị nhớ
'Đói lòng nằm gốc cây sung - Chồng một thì lấy chồng chung thì đừng' chứ' Tôi đã
hoài hơi chống chọi với bóng ma chị. Vì chàng. Chị tưởng tôi thèm làm hoàng hậu suốt
đời ư? Không! không phải thế! Tôi chỉ thèm làm vợ. Tôi chỉ thèm thấy lại một lần cái
nhìn buồn bã của nhà vua dù sao cũng sáng lên khi chàng thấy tôi đi tới. Chàng biết
hết tội của mẹ tôi, chàng biết hết lỗi lầm của tôi, nhưng chàng cũng biết lòng tôi thiết
tha với chàng đến thế nào, không phải từ sau khi tôi thay chị vào sống trong cung, mà
từ hôm ấy, từ hôm tôi hồi hộp ngước nhìn chàng và xỏ trượt hài thêu. Phải, chiếc hài là
của chị. Chàng biết cả, nhưng chàng cũng biết rằng... Đứa con gái nào đã xếp mình
vào hàng để thử hài chẳng vì lẽ ấy... Vậy mà chị nỡ... Chị đã hủy hoại tấm hình hài mà
chàng đã nhiều đêm ôm ấp. Chị đã tự hủy hoại.'

Sau đêm ấy, Cám thôi không hiện về. Nhưng những đêm dằng dặc sống cùng mơ
dữ đã tạo trong Tấm một thói quen không thể nào bỏ. Giống hệt một thứ bệnh nghiện.
Càng ngày càng tệ hại hơn. Trước, Tấm còn có thể chợp mắt đầu đêm trước lúc Cám
hiện về. Giờ thì nhiều đêm Tấm chống mắt, tự hành hạ bằng cách nhắc cho mình từng
lời Cám nói. Từng lời. Từng lời. Như nước lạnh rỏ đều đều vào tâm trí, không làm Tấm
khiếp hãi nữa, nhưng khiến Tấm tê buốt tới tận từng chân tóc. Sáng nào chuyện phải cất
Lê Minh Hà - Cổ Tích

mình khỏi giường, đi lại, ăn uống, sai bảo, bàn bạc cũng làm Tấm chỉ nghĩ tới đã bải
hoải. Sự mệt mỏi quá độ giờ đây làm Tấm mềm tính lại. Nàng lại gần giống như Tấm
của ngày xưa, yếu đuối, dịu dàng, nhưng khô khan, hốc hác. Gò má Tấm cao lên, đôi
mắt nàng sâu xuống, lúc rừng rực một cái nhìn, lúc lại như lạc thần. Người hầu kẻ hạ
thôi không còn phải lo đối phó với những cơn tức giận không chừng của nàng, tươi tỉnh
hơn, thế nhưng ai cũng có vẻ càng thêm ngại Tấm. Riêng có nhà vua thì dường như
càng ngày càng chìm sâu hơn vào ảm đạm. Một chiều kia, Tấm chua xót nhận ra ánh
mắt bơ vơ của nhà vua lúc dõi nhìn bông hoa súng đã tàn trên đầm nước chợt nhuốm
đầy vẻ khinh bỉ và ghê sợ khi chạm phải cái nhìn của nàng. Phải! Đúng vậy! Ghê sợ!

Cái nhìn của nhà vua làm bước chân Tấm run rẩy. Nàng tuyệt vọng. Nàng có cảm
giác tất cả, nhà vua, kẻ hầu người hạ trong cung đều nghe thấy hằng đêm lời Cám kể tội
nàng, khiếp hãi và thương cảm cái kiếp làm ma không toàn thây của Cám. Nàng có cảm
giác ai cũng sẽ hỉ hả nếu được thì thào với nhau về những lời Cám nói, và nếu điều đó
chưa xảy ra thì cũng chỉ bởi người ta còn đang muốn sống mà thôi.

Tấm đâm vừa ghét vừa sợ người. Lúc đi đứng lúc nằm ngồi, lúc nào nàng cũng
cảm như rờn rợn. Kể cũng lạ lùng, bởi đến ý nghĩ một lúc nào đó Cám lại sẽ hiện hồn
về giờ đây cũng không còn làm nàng khiếp hãi. Càng ngày Tấm càng thích khép mình
trong phòng cùng hai thị nữ, vốn là bạn gái ngày xưa được Cám gọi vào cung. Nhưng
cả họ rồi cũng bắt đầu làm Tấm sợ và ghét, bởi vẻ rụt rè vô cảm, bởi sự tận tụy gần như
là cam chịu mà họ trình bày với Tấm mỗi ngày.

Tấm bắt đầu năng hương khói. Thắp nén hương lên là nàng hăm hở cầu xin. Nàng
muốn bao nhiêu điều. Lòng thương, nếu còn sót lại ở nhà vua, ở chồng nàng. Sự tĩnh
tâm. Niềm an ủi.
Ngày xưa, không cần hương khói, Bụt vẫn hiện lên với nàng, che chở bảo ban
nàng. Bây giờ, Tấm van vái thế nào nàng vẫn chỉ một mình. Càng về sau, dù thành tâm
bao nhiêu khi thắp hương, Tấm vẫn thấy ý nghĩ mình tách khỏi những lời cầu nguyện,
đi lạc đâu rất xa. Tiếng nghé ọ buổi trưa nào giữa đồng không mông quạnh khi nàng
ngồi tránh nắng bên gánh cỏ trong ngôi cầu Đồng Bán... Những cái càng cua luều
nguều trên luống đất mới cày vỡ sau vụ gặt chiêm... Và nỗi buồn đeo đẳng đã làm vỡ òa
ở nàng suốt những ngày tháng xa xưa bao nhiêu là nước mắt, chỉ vì không được cảm
thông, chỉ vì không được yêu thương...
Nước mắt nàng đã khô đi sau bao nhiêu thống khổ mà mẹ con Cám đã gây ra.
Nàng đã khóc chỉ vì không được sống. Nàng đã không khóc khi tước đi sự sống của
một con người. Máu kêu trả máu là lẽ thường tình. Cái lẽ thường tình ấy bây giờ làm
nàng không khóc nổi. Tấm giơ bàn tay ra trước nắng quái rừng rực đỏ, nhìn, chua xót.
Nàng, với bàn tay này đã dội nước sôi lên người Cám, đã lóc xương lột da Cám làm
Lê Minh Hà - Cổ Tích

mắm. Và mẹ Cám chết gục bên hũ mắm ăn đã gần chạm đáy. Thật là đúng với lòng
nàng khao khát trả thù. Hổ dữ cũng không ăn thịt con mình. Tại sao nàng đã giết người
mà còn buộc người phải làm cái việc đến cầm thú cũng không làm. Cám nói đúng. Cám
có lý. Thần sắc của nhà vua bây giờ là thần sắc của người không còn thiết sống. Ai có
thể tiếp tục yêu thương, ai có thể yên tâm nhận yêu thương từ bàn tay của kẻ đã dám
làm điều ác cùng cực thế...

...Tấm ngồi chết lặng bên khung cửa sổ mở về phía hoàng hôn. Nàng không còn
nghĩ tới chuyện van vái khói hương. Nàng biết, nàng không còn có thể làm gì...
Lòng Tấm chua xót, bình tĩnh, trống trải, trống trải vô cùng. Tấm thở dồn. Bất ngờ
quá đỗi, nước mắt Tấm từ đâu ào về vỗ trong lồng ngực, dâng lên, ứa ra, chảy thành
dòng lặng lẽ. Hoàng hôn gãy thành muôn đốm chói rực. Như cái màu hoa gạo buổi
chiều tháng ba ẩm ướt năm nào, khi Tấm ngồi khóc vì bị mất giỏ cá. Cái màu hoa cháy
trong mưa, thảng thốt một trời xuân xa lắc. Tấm khóc. Như nước lụt. Đầm đìa. Ràn rụa.
Tràn trề.

...Đêm đã kéo tuột vừng mặt trời đỏ như quả bòng lửa xuống. Chỉ còn một chân
trời tím thẫm đang đùn sương bảng lảng. Từ chân trời ấy, Bụt bước ra. Bụt bảo Tấm,
giọng nghiêm, hiền, xót thương chất ngất:
'Đấy chính là điều kỳ diệu nhất ta có thể cho con. Nhưng con ạ, điều kỳ diệu nhất
bao giờ cũng là điều kỳ diệu cuối cùng.'

8. 2000
Lê Minh Hà - Cổ Tích

An Dương Vương

Sâu trong vịnh là làng chài. Từ làng chài nhìn chếch về phía ấy chỉ thấy núi chồm
ra biển. Ghềnh đá cheo leo lởm chởm hà dường như là bước nhảy cố gắng cuối cùng
của núi.
Ông lão ngồi trên ghềnh đá, tóc râu bay. Biển về chiều. Sóng hắt màu đồng chảy
lên núi, nơi vầng mặt trời đỏ lịm đang mệt mỏi lăn qua.
Từ trong sóng trồi lên một cái mu rùa vĩ đại. Rùa vươn cổ, oai nghiêm:
'Về đi! Bệ hạ về đi! Để mất cung điện chốn trần gian thì phải nương thân chốn
thủy cung. Lại vẫn còn giữ được tấm hình hài là người. Há chẳng quý sao! Bệ hạ còn
mong gì hơn thế?'

Tiếng rùa thần âm âm theo sóng, dội vào bờ đá, động cả làng chài. Đàn ông đàn bà
người già con trẻ túa ra từ những túp nhà trống huếch trống hoác, hoảng hốt nhìn nhau,
rồi cùng chạy thục mạng về phía vịnh, quỳ xuống vái lấy vái để biển chiều. Tiếng nói
dội lại từ mỗi vách đá và tiếng vang ai oán của câu trả lời ai cũng nghe thấy. Bụng biển
phồng lên, rạn thành muôn vàn sóng nhỏ. Không ai hiểu một điều gì. Tất cả là một sự
kinh dị. Tất cả là một sự kỳ diệu.

Ông lão cúi mình:


'Phải! Rùa thần nói phải! Giữ được hình hài, lại được thế nhân muôn đời tiếc nhớ,
mấy kẻ làm vua để nước mất còn được thế. Nhưng cũng bởi tấm hình hài là người này
chưa tiêu biến mà lòng ta động không yên. Hãy nhìn xem! Rùa thần hãy thử nhìn xem!
Có phải nơi này là chốn cùng đường của ta ngày đó không? Rùa thần nhận ra không?
Vịnh biển kia là nơi rùa thần hiện lên đón ta vào biển tối.'
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Bụng biển phập phồng. Chỉ một đôi người bạo gan nhất mới dám ngước nhìn. Đáy
biển động ầm ầm tưởng muốn lở cả bờ vịnh lôi tuột đám dân làng chài xuống. Đấy là
tiếng rùa thần đạp nước. Rùa thần khoan thai cưỡi trên lưng sóng bơi vào, khoan thai
trèo lên ghềnh đá, vươn cổ dõi nhìn biển lớn. Ông lão cũng nhìn biển lớn, thở dồn:
'Quân giặc tiến như gió cuốn. Lá trên cây khô lại bởi bụi bốc dưới gót giặc. Rùa
thần nhớ không? Không còn ai là bộ hạ bên ta. Rùa thần hiện lên, chính chốn này đây,
quát bảo: 'Giặc ngồi sau lưng nhà vua đó!' Chính là nó! Con ta! Ta đã chém đầu nó!
Nơi này!'
Mặt trời lừng khừng bò qua đỉnh núi. Ông lão khỏa tay xuống nước, thở dài:
'Máu nó chảy xuống nơi này. Nước biển nơi này đã tụ tụ tán tán thành mây thành
mưa triệu triệu lần. Triệu triệu con trai đã ngậm máu nó làm thành ngọc quý. Mà sao
nước biển tự bấy đến nay còn đỏ?'
Rùa thần rụt cổ, chán nản trả lời, tiếng như vọng thẳng từ mặt đất đau đớn bởi
những mầm đá sắc cắm xuống:
'Bệ hạ sai rồi! Đấy là hồi quang mặt trời. Đừng nhìn xuống! Hãy nhìn lên! Không
phải là vầng ô vẫn còn ngự trên đỉnh núi kia ư?'
'Ta đã từng tưởng vậy. Mà không phải! - Ông lão mệt mỏi tiếp lời - Đúng là biển
nơi này nước đỏ. Máu con ta không lẽ không loãng đi được trong nước biển hay sao?
Ôi rùa thần! Rùa thần thấu hiểu sự đời. Rùa thần tài giỏi hơn người. Nhưng rùa không
phải là người. Làm sao rùa hiểu được...'

Gió lồng trong khoảng lặng yên, đưa tiếng nói âm u của ông lão và rùa thần vào tận
bờ vịnh, nơi đám người đang tê liệt vì kinh sợ. Rùa thần gục gặc đầu. Mặt đất rung rinh.
'Sao ta không hiểu. Nhưng bệ hạ có còn đường nào khác hay không? Phép nước
không chừa thân thích. Bệ hạ còn được hậu thế lưu danh chính bởi bệ hạ dẫu mất nước
vẫn không quên phép nước.'
'Người ta tự cổ ai không chết. Ta đâu mong gì hậu thế lưu danh theo cái cách này.
Kẻ hại nước là con ta. Ta đã chém chết. Việc của ta, ta phải làm, không ân hận. Nhưng
ta thương con ta. Chao ơi... Lúc đó...'

Gió nâng tiếng ông lão lên cao, rải khắp bốn phương. Trong giọng uy nghi của
bậc quân vương có lẫn tiếng thở dài vuốt mỏng như lưỡi gió.
'Rùa thần không nhìn thấy. Nhưng ta, ta không thể nào quên. Nó vươn cổ chờ lưỡi
gươm ta bổ xuống mà miệng cười tê tái. Trên vai nó là cái áo lông ngỗng. Không!
Người đời bịa đặt. Làm gì có vết lông ngỗng chờ đợi 1. Làm gì có sự nó gỡ áo rắc lông

1
: Thơ Lê Giang
Lê Minh Hà - Cổ Tích

ngỗng bên đường làm dấu cho chồng đến giết cha. Làm gì có chuyện nó để trái tim lầm
chỗ 2. Cơ đồ này đắm biển sâu từ đó. Tội tại mình ta!'
Ông lão thở dốc. Bụng biển phồng, xẹp, phồng, xẹp, phồng, xẹp. Mặt trời vô ưu
tuột xuống bên kia núi. Hoàng hôn rơi bàng hoàng.
'Tội tại mình ta! Sao thế nhân lại chỉ thương ta mà đổ tội lên đầu nó. Ôi con ta...'
Ông lão nói như khóc cùng biển lớn. Thủy triều dâng dị thường...

'...Nó biết cả. Nó biết nó bị cha và đám quần thần biến thành gà mồi. Nhưng nó
yên lặng. Bởi vì nó phải lòng kẻ đó. Bởi vì chúng nó phải lòng nhau. Ta hiểu vì sao họ
Triệu gửi con sang xin làm rể. Hòa hiếu thực đâu cần con tin. Nhưng ta đã tự kiêu tự
đại tin vào lòng trung của đám quần thần, vào sức mạnh kỳ diệu của nỏ thần rùa tặng,
vào nhan sắc con ta. Người đời than họa phúc khôn lường. Đâu phải! Phúc là mầm của
họa. Khi người không còn giữ được sáng mắt sáng lòng.'
'Nhưng cũng không hẳn vậy. Con ta có mắt tinh đời. Kẻ ấy khôi ngô thế! Kẻ ấy tài
hoa thế! Kẻ ấy tự tin mà khiêm nhường thế! Cao Lỗ đã khuyên ta... Chính ta đã mù lòa
không muốn nhìn ra một điều rất đỗi hiển nhiên. Không bao giờ một chàng trai có cái
nhìn thẳng và nghiêm trang rất mực như thế lại để mình thành đất sét trong tay kẻ
khác. Không bao giờ một chàng trai như thế lại đem thân qua ải chỉ để toan tính
chuyện kết nghĩa phu thê. Không bao giờ một chàng trai như thế lại quên tình cha con
nghĩa quân thần chỉ vì nhan sắc đàn bà, dẫu đó là nhan sắc của một công chúa. Ta
không thể kết tội kẻ ấy là phản bội. Đất nước này không phải là của nó. Kẻ ấy bội tình
chứ không phản nước. Tội nghiệp con tôi! Ôi con ơi! Cha có tội với đất nước này! Cha
có tội với con!'

Trăng đã lên, tròn vành vạnh, vãi bạc ròng vào sóng. Rùa thần nằm, lặng lẽ như
đất, lắng nghe, lắng nghe. Tiếng ông lão giờ chỉ còn như một tiếng thì thầm lẫn vào
trong tiếng rì rầm của biển:
'Khi ta gọi con ta ra hỏi ý trước mặt quần thần về chuyện họ Triệu cầu hôn xin
thông hiếu, nó đã nhìn ta, tái mặt. Nó biết nó phải đương gánh nặng của nước non này.
Nhưng nó dường như cũng biết rằng không thể giấu ta tấm tình nó dành cho kẻ ấy.
Giữa nó và kẻ ấy lúc bấy giờ là gió, là lửa, là cái đã bùng lên giữa ta và nàng sơn nữ
núi Tản năm nào, người đã sinh nó cho ta mà không bao giờ được là vợ ta. Phải! Ta đã
cưới nhiều người đàn bà về sau mà không cưới nàng. Những cuộc cưới hỏi cũng hệt
như những cuộc cưới hỏi mà ta muốn thành với họ Triệu. Là chuyện thế và lực gắn với
nhau chứ không phải là chuyện cưới xin giữa đàn ông và đàn bà, không phải là chuyện
tình nghĩa kết ước. Ta có nhiều con với những người đàn bà đó. Nhưng lòng ta trìu
mến nhất nó, đứa con mà ta đã mang theo về đất Phong Khê để lại mẹ nó một mình với
núi với rừng ngơ ngác. Chính bởi thế mà ta hiểu ngay cái nhìn bối rối của nó và kẻ ấy
khi lần đầu chúng giáp mặt nhau. Rùa thần liệu biết chăng? Ta đã âm thầm mừng vui.
Dù sao thì con ta cũng sẽ được sống với duyên tình của nó khi đương trên vai gánh
2
: Thơ Tố Hữu
Lê Minh Hà - Cổ Tích

nặng sơn hà. Ta đã lầm. Bởi kẻ ấy cũng có một gánh nặng sơn hà. Nhưng đó là một sơn
hà khác.'

Tiếng ông lão khản đi, dữ dội và đau đớn:


'Người đời kể tội con ta làm lộ bí mật nỏ thần. Nó biết gì! Phải! Đâu chỉ Triệu Đà.
Chính ta, ta cũng muốn mượn tay Trọng Thủy... Con ta phận gái, làm sao hiểu được
hết mưu đồ của bọn đế vương. Mà biết, liệu nó có thể làm gì! Nó dịu dàng thế, thơ ngây
thế! Nó làm sao nhịn không yêu. Nó làm sao đối phó được với cái tâm của kẻ dám
khuất thân qua ải vì mệnh nước. Mà ta, ta cũng ngỡ rằng tâm can Trọng Thủy sẽ bị
bào mòn trong chiều chuộng và mơn trớn. Rút lại tội chỉ mình ta. Ôi! Sao trời cao đất
dày không cho ta chết cùng đám quần thần giữa cuộc giao tranh! Sao trời cao đất dày
bắt ta phải tự tay chém bay đầu đứa con ta yêu nhất! Phải! Rùa thần nói phải! Ta
không còn con đường nào khác. Nhưng rùa làm sao thấu hết... Lưỡi gươm ta bổ
xuống... Là lưỡi gươm của bậc quân vương trị tội quần thần bất trung. Là lưỡi gươm
của một người cha trừng phạt con bất hiếu. Nhưng ta giết con ta còn là để cứu nó. Con
ta không thể sống để nhìn cảnh chồng nó chém đầu cha nó, hoặc giả đóng cũi giải cha
nó về kinh thành vừa mất trong nỗi kinh hoàng của chúng dân. Con ta không thể sống
để theo chồng trở lại đất Phong Khê, dẫu là trở lại để hưởng phúc lộc. Phúc lộc đó là
thứ phúc nhục lộc nhục. Nó không thể gặp lại Trọng Thủy. Nó làm sao kết tội được
chồng nó chà đạp lên sơn hà này xã tắc này khi nó biết rõ rằng Trọng Thủy chưa bao
giờ phản bội lại cơ đồ họ Triệu. Còn nỗi đau vì bị họ Triệu bội tình bội nghĩa ư? Quá
nhỏ! Khi nước non này mất!'

Rùa thần chật vật xoay tấm thân vĩ đại về phía ông lão:
'Bệ hạ tự dày vò cả ngàn năm nay. Ta biết cả. Nhưng có nghĩa gì điều ấy?
'Ra thế! Vậy là rùa cũng đã biết ta không ngần ngừ lâu trước lúc chém đầu nó.
Con ta không chết lúc đó thì có nghĩa là nó sẽ không chết được. Nó không chết thì
Trọng Thủy sẽ không chết. Hai kẻ sống từng yêu nhau đó sẽ sống tiếp ra sao? Lúc ta
rút gươm, mọi nhẽ ta chưa cạn. Nhưng bây giờ, khi nỗi đau nỗi nhục đã hóa thạch
trong lòng, ta mới hiểu ra rằng nếu ta không giết con ta thì sẽ không có cái kết đó
trong câu chuyện người đời kể về nó. Ta không mong gì lưu danh hậu thế, nhưng ta
biết rằng những kẻ như ta không thể tránh khỏi sự trở thành huyền sử của thế nhân.
Thế nhân đã muốn ta bất diệt, nhưng lại muốn ta tự tay xử trảm con mình. Biết làm
sao! Thôi thì đã không cứu nổi nó khỏi miệng tiếng người đời, ta cũng cho con ta được
chết để hóa thân thành ngọc.'
'Vô ích thôi, bệ hạ.' Rùa thần thở dài mệt mỏi. 'Những day dứt băn khoăn nên có
chăng ở bậc anh hùng danh tướng? Đã là bậc danh tướng anh hùng tất phải nghĩ trên
tầm mà kẻ thường tình không thể hiểu nổi, không thể thông cảm nổi.'
'Ai anh hùng ai danh tướng? Cha ta vốn chỉ là một gã sơn tràng mà lập nên nước
Thục. Khi theo người tìm gỗ quý chốn rừng sâu núi cả ta đâu biết cha ta đang nghiền
ngẫm những gì, ta đâu biết ta sẽ là người dựng nước  u Lạc, mở mang bờ cõi Văn
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Lang. Không có anh hùng hổ danh tướng báo. Anh hùng danh tướng có chăng là nhờ
lời xưng tụng của thứ dân. Không biết tới những ý nghĩ của kẻ thường tình liệu thực là
bậc anh hùng danh tướng không? Chúng ta chỉ là bọn tội đồ của lịch sử, mới chỉ đi hết
nửa phần đường từ kẻ thường tình trở thành bậc danh tướng anh hùng. Còn nửa phần
đường trở lại... Biết đâu trong đâu đục! Biết đâu nhục đâu vinh! Kẻ phản trắc là Trọng
Thủy. Kẻ anh hùng cũng gã... Giá mà có thể vớt hết trai ở biển này thả vào giếng kẻ ấy
đã trầm mình! Rùa thần thấy thế nào? ờ phải... Ngọc quý chẳng bao giờ nên tụ hết vào
một chỗ...'

...Khuya lắm. Rùa thần cựa mình trườn xuống nước. Đất và nước rùng rình làm
chao cả vầng trăng to vành vạnh đang ngoắc chênh vênh trên ghềnh đá. Rùa ngoảnh
nhìn ông lão, giọng âm âm:
'Về đi! Bệ hạ về đi! Thế nhân kết tội, mà cũng chiêu hồn cho kẻ đã chết rồi. Bệ hạ
cứ ngồi đây than vãn thì phỏng có ích gì? Bất quá lại đi vào một huyền sử mới. Thế
nhân ao ước vậy, bệ hạ cũng từng khát khao... Nhưng đấy chính là điều thực chẳng ai
cần.'

Dân làng chài tiếp tục phủ phục đến tận lúc bình minh lấp lánh nơi chân sóng.
Chẳng ai hiểu một chút gì về điều dị thường vừa được chứng kiến. Nhưng họ kể rằng
điều dị thường sau đó thỉnh thoảng lại xảy ra. Không ai tường mặt ông lão. Chỉ thấy tóc
râu bay. Còn rùa thần thì có thể nhìn thấy cả vết rạn trên mu.
Dân làng chài còn bảo rằng có thể biết trước những lúc rùa thần và ông lão xuất
hiện. Thường mấy hôm đó trời rất nắng. Và triều dâng bất thường.
Dân làng chài cũng kể rằng năm nào ông lão và rùa thần hiện, năm đó mưa thuận
gió hòa, được mùa biển, không có người mất xác ngoài khơi.
Điềm trời rõ ràng đến nỗi làng chài lập miếu thờ ông lão và rùa thần. Ra khơi vào
lộng không ai dám không bái vọng vào ghềnh đá, nơi có ngôi miếu đơn sơ.
Nhưng không kẻ nào ở làng chài biết rằng ông lão hiện lên từ biển lớn và con rùa
vĩ đại kia là ai. Họ cũng không tìm biết. Với họ, thần linh là thần linh, càng mơ hồ càng
thiêng. Với họ, chỉ có biển là giản dị, động và tĩnh, được và mất, tất cả đều giản dị. Và
chỉ tên các loài cá đang lang thang trong biển lớn mới thực sự có ý nghĩa.

9. 2000
Lê Minh Hà - Cổ Tích

ới ơi dâu bể

1. Vienan

Buổi chiều Cẩn đến rủ đi ăn chè. An vốn mê chè đỗ đen từ bé. Lời mời thực ra vô
cảm thành có duyên cấp số cộng trong trong một ngày nực nội thế này. Xách xong mấy
xô nước cho mẹ, An ngồi lên xe, thản nhiên nắm thắt lưng Cẩn, cảm thấy rất rõ cái lườn
đàn ông co nhẹ trong lòng tay. Hàng chè người đông ngang ruồi, nhìn phát ngốt. Lại
toan tính đi ăn kem. Kem vỉa hè. An đòi và Cẩn hơi ngỡ ngàng. An cần cù mút hết que
kem này đến que kem khác trong khi không quên ngó mặt người qua đường. Thì Cẩn
hỏi có phải An với Viên thôi nhau An có biết có người mất ăn mất ngủ vì An rụng tóc
vì An. An chìa cây kem cuối cùng đã bắt đầu chảy cho con bé Xa Mẹ bẩn thỉu mắt sáng
quắc, rút khăn lau tay, nghĩ mất ăn mất ngủ vào đợt gió Lào này có gì khác thường,
nhìn Cẩn ân cần: 'Cẩn tỏ tình cho mình hay tỏ tình hộ ai?' 'Cho Cẩn!' 'Cẩn đá bồ hay bị
bồ đá?' 'Không ai đá ai. Chỉ đơn giản là Cẩn yêu An và bây giờ Cẩn biết An Viên thôi
nhau. Tin chính xác chứ?' An thở dài. Cười: 'Chính xác. ừ thì bọn mình yêu thử nhau
xem sao. Bắt đầu từ chiều nay nhé!'

Để gia cố ngay lập tức tình yêu vừa ký kết miệng, hai đứa rủ nhau gửi xe sang
đường vào phòng triển lãm tranh. Hai tác giả. Nhiều phong cách. Người xù xì rậm rạp
những vòng trừu tượng toàn màu dầu nguyên chất. Người màu nước nuột nà khói
sương như tranh lụa với con gái mặt bầu tóc mây xoã xượi cổ cao, khác tranh Tây ở cái
mặt bầu lông mày nét ngang và khác tranh ta của các cụ Cao đẳng Đông dương thuở
xưa ở cái hông bành trướng thật lực như đã từng chửa đẻ. Đông Tây hòa hợp Kim Cổ
giao duyên thôi thế cũng là được, muốn biết hay biết đẹp thế nào thì còn cần phải đọc
các bài bình luận giới thiệu thể nào cũng có. Cẩn tiến gần, lùi xa, chắp tay, xoa mũi. An
Lê Minh Hà - Cổ Tích

nhìn Cẩn, thấy thú vị hơn cả xem tranh, và để thả cửa ngắm nhìn, vô tình An cũng tiến
gần lùi xa Cẩn. Bất đồ va phải người. Viên. Viên đi cùng một cô bé. Cũng xinh. Mông
má hơi bị kỹ. Nhưng trông đần đần đanh đanh. 'Em đấy à? Đi cùng ai thế?' 'Làm gì có
chuyện tiếp tục gọi con người ta là em vậy nhỉ'. An khoát tay: 'Cẩn. Đứng kia kìa. Thế
Viên và... bạn... Xin tự giới thiệu, mình là An bạn Viên, bạn học, bạn thân... nói vậy có
còn được không Viên?' Viên mỉm cười, bình tĩnh: 'Dĩ rồi. Làm sao nã súng lục vào quá
khứ.' Cô bé đi cùng Viên miệng cười, nhưng mắt xoáy lên một ánh gì gay gắt, trong
một phút tất cả vẻ đần đần ngoan ngoãn tan nhanh như que kem lúc nãy An đánh rơi
dưới hè phố. Viên vẫn thản nhiên mỉm cười, nhìn về hướng Cẩn đang say mê tiếp tục
lùi xa tiến gần chắp tay xoa mũi. An thấy đau đau trong lòng. 'Không thể nhớ cung
cách Viên xem tranh như thế nào. Bao nhiêu lần. Cũng ở đây đây.'

Cẩn tiến lại tay lắc lắc chùm chìa khóa: 'Hello anh Viên. Hello bạn. Đã xem gì
chưa? Bọn này phải đi đây.' Cô bé bạn Viên nhìn chùm chìa khóa trong tay Cẩn như bị
thôi miên. An cũng cười cười như bị thôi miên, lặng lẽ đi theo Cẩn, lặng lẽ như thế suốt
khoảng đường về nhà, mãi không thể tự trả lời chuyện với Cẩn là đùa hay là thật.
Chuyện với Viên là thật, bảy năm trời, rồi bỗng chốc đã thành chuyện để ngồi cười.
Chao ơi.

Con nhà mới giàu, có biệt thự trên quãng làng Hoa, kính trắng, mồm cá ngão, tự
tin, trước không biết làm gì cho hết ngày ở cơ quan vì không có nghề, sau đi học bằng
xe đập hộp trông sáng láng hơn người đang cưỡi, hì hục mãi cũng xong được cái đại
học Mở, khoa Quản trị Kinh doanh.... Chơi thế mới sang... Thật chưa bao giờ An tưởng
tượng giấc mơ của mình lại là như vậy. Cẩn có không đủ những tiêu chuẩn trên. Ví dụ
Cẩn hoàn toàn không xấu. Cũng không ngốc. Cẩn tự tin, biết mình muốn gì và phải làm
gì. Yêu nhau có lẽ được gần nửa năm, hôm đi câu trên hồ Tây, trong lều, Cẩn buông
cần, ôm lấy An, bình tĩnh cởi tiếp cái khuy thứ ba áo An, áp môi vào đó. Chỗ đó, An
thấy bỏng rát như bị nước đá áp vào, và hoàn toàn phi lý, tự dưng đầu An lổn nhổn hình
ảnh đống cá bể ươn lẫn trong những cục nước đá vàng khè đang tan, ở chợ Hôm, một
ngày xa xôi, rất xa xôi, khi An còn bé tí, còn lệch nhệch theo tiếp sức cho ông anh mải
chơi lực lượng xếp hàng chủ lực của cả nhà trong việc giải quyết tem phiếu hàng tháng.
Cẩn cười hiểu biết khi An rùng mình, quay lại đỡ cần câu, cạn nốt lon bia: 'Chả lẽ An
với anh Viên chưa bao giờ như thế? Rất bình thường, phải không? Sắp lập thu rồi, hay
bọn mình cưới nhé?' Cẩn có vẻ hoàn toàn không bực tức, không ghen tuông khi nói câu
đó. Từ cái lều bên cạnh vọng sang tiếng rúc rích. An đờ đẫn nhìn sang bên kia hồ. Bên
ấy nhấp nhô bao nhiêu là chóp mái những ngôi nhà mới dựng. Bên ấy là Xuân La Xuân
Đỉnh. Bên ấy có ngôi trường cấp ba năm xưa An xin về dạy hợp đồng. Có Viên những
buổi sáng mù sương gò lưng trên cái xe cuốc Liên xô đèo An đến lớp rồi hộc tốc tới cơ
quan. Cái xe không có poocbaga, An ngồi gióng trước, chỉ hơi quay người là đã cảm
Lê Minh Hà - Cổ Tích

thấy hơi thở Viên như một cái hôn dài. Làng ven đô, mà những chiều sương xuống sao
âm thầm buồn chả khác gì những làng quê xa An từng qua hồi còn là sinh viên đi thực
tập. Mười năm chưa? Đã thành xa lắc! Từ bờ bên ấy trôi lại một chiếc thuyền con. Cậu
trai chèo thuyền bằng chân, thận trọng nâng cần vó... Có gì trong đó? Anh chàng người
Anh sếp An bây giờ rất thích chiều chiều lên hồ Tây, lang thang một lúc trong đền Trấn
quốc rồi ra thuê cần câu. Cũng như Cẩn với An bây giờ. Không rõ thực anh ta làm gì ở
trong một cái lều như thế này? Có lần anh ta chìa cho An một bức ký họa cảnh chiều
hồ. Mặt nước xam xám. Bầu trời xam xám. Chiếc vó nhìn từ cận cảnh như tấm mạng
nhện rách đính vào trời. Chao ơi đẹp. Nhưng sao mà hắt hiu.

Viên lại đến nhà, không xin lỗi lấy lệ, không gì cả, nhưng ý nhị không nói gì về cô
bé kia và không tìm cách xiên xỏ gì Cẩn. Bố nhìn Viên đầy vẻ vừa hiểu biết vừa kính
trọng vừa thông cảm lại vừa khinh rẻ. Mẹ thì có vẻ bực bội ra mặt. Bực vì con mình đã
bị bỏ rơi và bực vì con bé bị bỏ rơi nhỡ lại đùng đùng chạy về với thằng gà trống rất
đàng hoàng kia. Cẩn gặp Viên một chiều thứ bảy ở nhà An, sau đó giục giã An cưới.
Lần này thì Cẩn có vẻ không bình tĩnh như hôm ở trong lều câu trên hồ Tây.

Bạn gái chia ít nhất là ba phe. Đứa bảo tha thứ cho Viên để mà lấy người mình
yêu. Đứa dè bỉu lấy thằng mình yêu để nó hành cho lên bờ xuống ruộng à yêu thì yêu
thằng đáng yêu lấy thì phải chọn thằng đang mê muội vì mình nhỡ mẹ nó có hành mình
thì cũng phải nhìn thằng con mà cân nhắc. Đứa thì ý tứ làm ra vẻ vô tư thằng Tây đi với
mày hôm rồi tới cơ quan tao có phải là sếp lớn của mày không? Chỉ có mỗi cô bạn học
cùng sư phạm năm nào là nhìn An đầy vẻ thương xót. Bao giờ nhìn vào mắt bạn An
cũng rùng mình, cũng phải cười gượng. Lòng thương của mày sẽ giúp được gì tao?

Chiều muộn An phóng xe từ chỗ làm về. Tưởng đã tránh được tắc đường mà
không thoát. Cái xe rì rì lăn trong dòng người mướt mồ hôi bỗng hực hực rồi chết lịm.
Quả hoàng hôn đầu hạ trước mặt An cũng đang lịm dần, để lại những quầng quái dị
phía chân trời. Một chân trời rất xa và rất hẹp, bùng bùng đỏ nhòe trong những vệt mây
tím thẫm bị kẹp chặt bởi những khối nhà cao tầng mới xây. ì ạch đẩy được cái xe tới
gốc cây le lói ngọn đèn dầu nhỏ, buông tay lái vào tay thằng bé sửa xe, bước lùi tránh
cái ghế con thằng bé đẩy ra cho khách ngồi chờ, An đứng khuất mình dựa lưng vào
bóng tối. Hai cánh tay ngoặt ra sau lưng áp vào cái mấu cây xù xì, An ngửa mặt nhìn
trời. Trong quá. Ngàn ngàn sao nhấp nháy, như những con mắt sắc, thản nhiên và
nghiêm khắc. ở xứ sương mù kia đêm nay trời có trong như thế này không, có những
con mắt lạnh đến thế này không? An nhắm mắt rồi lại mở bừng mắt, những ngôi sao
mờ đi trong cái mở mắt lại đầu tiên, rồi tiếp tục lãnh đạm và lặng lẽ nhấp nháy, nhấp
Lê Minh Hà - Cổ Tích

nháy. An đứng như thế, mong nước mắt trào. Giọt nước mà An đã muốn cho ràn ra từ
buổi chiều lúc gật đầu dịu dàng nhận lời cầu hôn của anh chàng người Anh sếp lớn rơi
vào đâu trong lòng An lúc đó, cạn đâu rồi?

Thế là không phải Cẩn. Thế là không phải Viên. Thế là không phải lo đối đầu với
bà mẹ thị xã da ngăm chân to ưa mặc váy và ưa son tím của Cẩn. Thế là không cần phải
lấy lòng hai cô em gái trình độ của Viên. An mím môi, nghe thằng bé chữa xe giảng
giải xe An cần phải thay với chữa những gì những gì, nghe, chăm chú, và chả hiểu gì
cả.

Lúc An lên xe rồ máy, gió đêm bỗng nổi ào ào trong vòm lá. Mây từ đâu ùn về lấp
những ngôi sao. Đèn đường tắt phụt, nhưng cái đèn dầu của hàng chữa xe thì vẫn yếu
ớt tỏa một cái bóng nhỏ lung lay quanh chân mình. 'Phải về nhanh thôi.' 'Phải về thôi.'
Hôm nay sinh nhật An. ở nhà chắc đã có người chờ. Mắt An hoa lên trước ngàn ngàn
ánh đèn xe máy đang khoan vào bóng tối.

2. Chử ơi

Táng cha thì vùi cho sâu


Khố thôi đừng đội lên đầu...

...Hai năm rồi, Chử vẫn rầu rĩ lắm. Chử không hiểu hết lời cha dặn. Mãi mãi không
hiểu. Lúc đó sức cha đã kiệt lắm rồi, chân đã lạnh rồi. Khố còn đâu mà đội lên đầu. Cái
khố duy nhất còn dùng được ấy Chử đã đem liệm cha trước khi vùi cha bên bãi, thật
sâu, phòng khi nước lớn. Vậy là từ đó không còn cái cảnh cha bước rảo, trần truồng, vai
vác cái giậm, tay bưng phía trước, cũng là che lấy lệ mỗi lúc gặp người làng, và Chử đi
sau, khố chỗ khô chỗ ướt, ngực trần bóng nước, một tay xách chùm đó, một tay xách
giỏ cá về lều chờ phiên chợ sớm.

Chử còn trẻ lắm. Chử chưa thể thản nhiên bưng cu đi dưới ánh ngày, dẫu là đi
quãng vắng cuối làng, nơi chỉ có những con rẽ giun cứ chốc chốc vụt bay lên từ ruộng
dâu. Khố chẳng còn. Độ trước cha con đi kiếm cá, ngày nắng Chử lấy dây chuối buộc
chặt khố lên đầu trước khi dầm mình xuống nước. Ngày mưa tùm hụp cái áo tơi lá. Cái
Lê Minh Hà - Cổ Tích

khố vải to đã rung rúc được nghỉ ngơi. Chử mang khố ấy liệm cha rồi... Cha đã hẹn
rằng sẽ mua khố mới...
Khố mới vậy là chẳng biết bao giờ có. Khố cũ không còn. Giờ, Chử thôi làm thân
cò. Chử làm thân vạc. Đêm đêm Chử lặn lội hui hút nơi đầu ghềnh cuối bãi, tinh mơ
dìm nửa mình dưới nước, gồng theo cái giậm và cái giỏ, men lại chỗ mấy bà buôn quẩn
ven sông... Chử sống một thân hẩm hút, kiếm cá đổi cơm, nhưng không thấy mình tội
nghiệp. Mỗi người một phận, tị nạnh thèm khát mà làm gì. Xung quanh ai chẳng một
nỗi niềm riêng. Biết ai kém ai hơn. Chỉ có điều tháng ngày cô độc này, máu cuộn thân
trai này nhiều lúc làm Chử cảm thấy không còn biết phải làm gì. Chỉ còn mỗi nước dìm
mình xuống dòng sông lạnh.

Sáng nay Chử quay về muộn. Đêm qua nước ấm, cá ăn lên nhiều. Dốc giỏ vào lòng
thúng của bà đón cá quen, nhờ bà luôn tiện đong giùm đấu gạo, Chử lội tiếp một thôi
tới quãng khuất rồi lên bờ, vác giậm đi dọc theo cánh bãi. Sông quãng này xa làng xóm.
Chỉ bát ngát những dâu với ngô. Bãi ngô tiếp tiếp. Phơ phất cờ ngô trong sương dày
như mưa bụi. Rồi lại ruộng dâu lướt mướt. Và cồn cát nổi. Bàn chân Chử lùa cát ẩm,
sục vào những vũng nước nơi dòng sông chảy chìm, chạm phải một con hến cụ. Nắng
lên tần ngần rải ánh vàng trên ngút ngát xanh. Là là hơi đất bốc lúc tan sương. Chử mỉm
cười vô cớ...

Tiếng chiêng trống xé toang sương bạc. Một đoàn thuyền từ cuối dòng lừ lừ áp tới.
Những con rẽ giun chắc còn đang ngủ gật tất tả bay lên. Chử luống cuống buông vội cái
giậm bên rệ nước, lẩn vào ruộng dâu. Cảm giác bất an ám ảnh suốt mấy ngày qua lại
cồn cào lòng dạ. Sương dày thế mà giờ như mỏng quá. Những hàng dâu kín lá tưởng
chừng sắp tan hoang trong chiêng trống vang lừng. Chử nhìn đâu cũng thấy mình lồ lộ.
Chàng còn kịp kêu thầm khi thấy cái giậm làm ăn lập lờ trôi theo con nước xa dần trước
lúc vội vàng kéo những cành dâu rấp lại mong cho kín người. Hai bàn tay Chử bất giác
run theo nhịp run từ trong dạ, mặc dù chàng không cảm thấy cơn đói đã thành quen mỗi
đầu ngày sau vất vả từng đêm...

...Người ta làm gì lạ quá. Đàn ông thì gò lưng kéo thuyền qua bãi cạn. Đàn bà thì
tíu tít quây màn kín nước. Kẻ nào cũng áo quần xúng xính và sặc sỡ như màu những lá
cờ ẩm sương đang uể oải bay. Rồi tất cả đám đàn bà đó hối hả tụ lại chạy theo đám đàn
ông. Chỉ có một người khoan thai tiến dần về phía cái lều không mái rèm buông lửng
đang thu hút cái nhìn của Chử. Người ấy vén cánh rèm... Một bờ vai đầy đặn. Một vòng
hông rộng lộ ra sau mớ tóc đen dài. Đôi bắp chân thon trắng lóa mắt. Chử há miệng,
nuốt khan dìm cơn run đang mạnh dần lên. Lại vẫn là cảm giác ấy xâm chiếm Chử,
bừng bừng, không thể nào chịu nổi. Chử không còn biết mình làm gì. Những cành dâu
Lê Minh Hà - Cổ Tích

bật cong trở lại theo cái buông tay của Chử. Sương rơi rào rào, lạnh thít người. Cơn
nóng kia vẫn trào lên, trào lên, căng từng thớ thịt. Chử bước tới, bước tới...

Xin lỗi em vì sự thật này. Rằng Tiên Dung, phải, đấy chính là Tiên Dung công
chúa đã không kêu lên một tiếng nào khi Chử thình lình giằng lấy cái gáo trong tay
nàng. Nàng hoảng sợ. Thuyền quan quân phía bên kia bờ nước, xa quá, chỉ nghe tiếng
nói cười xôn xao chao giữa đôi bờ. Nàng hoảng sợ. Cái bụng tròn tròn phập phồng. Đôi
nhũ hoa xinh như hai hạt mận từ từ nở. Tiên Dung lả người, chỉ kịp cảm thấy dưới lưng
mình là cát ướt, là cảm giác nàng đã muốn làm dịu đi bằng cách tắm lúc bình minh, là
một cái gì kì lạ lắm đột ngột nổ tung, run rẩy râm ran lan dọc sống lưng lên từng chân
tóc. Tiên Dung xỉu đi, những ngón tay vẫn bấu chặt cánh tay của thằng người lạ....

Thiên cổ tích mà chúng ta mê mệt đã bắt đầu như thế. Một lần nữa, xin em thân
mến lượng thứ cho vì sự thật này. Tôi không chịu được những tình tiết phi lý chẳng để
làm gì. Chẳng hạn: Chi tiết Tiên Dung dội nước làm trôi cát phủ trên mình Chử. Chẳng
hạn: Lúc đó Chử Đồng Tử cực kỳ sợ hãi; Và Tiên Dung đã ngậm ngùi rằng đó là ý Trời
trước lúc dắt chàng Chử run cầm cập xuống thuyền trước bao con mắt ngỡ ngàng của
đám quân quan.

Thực ra là thế này: Lúc Tiên Dung tỉnh lại, con khỉ độc, thằng người lạ đã ngồi
dậy, đang ve vuốt vai nàng. Nàng chợt nhận ra mắt thằng người đó rất hiền, những ngón
tay ram ráp lại gây trong nàng nguyên vẹn cảm giác đó. Rồi nàng lại nhận thêm ra rằng
nàng không giận dữ chút nào, rằng lòng nàng tràn ngập cảm giác biết ơn mà nàng đã
đọc thấy trong mắt người đàn ông ngồi cạnh. Tiên Dung mỉm cười tin cậy và Chử lại đổ
xuống... Nắng chan hòa, lấp lánh trong đáy mắt Tiên Dung. Gió xuân chờn vờn da thịt...

Tin thằng đánh giậm ba đời lấy con gái yêu nhất của vua như tiếng trống hội âm
vang qua bao nhiêu làng xóm, vọng về tận kinh đô vua Hùng trước lúc đoàn thuyền
quan quân theo hầu Tiên Dung về tới đất Phong Châu. Vua Hùng điên giận trước
chuyện con làm việc tày trời. Còn chúng dân lại vô cùng phớn phở.

Bên bờ sông xưa, chỗ cắm túp lều nát của Chử giờ là xóm mới. Nhà Chử ở giữa
xóm, cột gỗ xoan mùi bùn ngâm còn thum thủm, mái lá cọ chưa mang màu sương nắng,
sân đất mới nện lúc nào cũng rậm rịch tiếng bước chân của kẻ ăn người làm. Khách
Lê Minh Hà - Cổ Tích

khứa ra vào suốt ngày. Tiên Dung, nàng công chúa bị phế hóa ra là một bà chủ rất có
uy. Bước chân nàng thoăn thoắt nhà trên nhà dưới. Giọng nàng bảo ban sai phái chào
mời lảnh lót sân vườn. Nàng cười bực bội khi nghe tiếng hát đúm từ hội làng vọng lại
kể chuyện nàng và Chử.

Cuộc sống mới làm Chử chao đảo. Chàng bàng hoàng khi rút cục đã đủ tiền cải mộ
cho cha và đãi đằng làng nước. Chàng bàng hoàng khi đêm xuống được ôm vào lòng
một thân hình đàn bà nóng hôi hổi ngọt ngào như một củ khoai nướng vĩ đại. Chàng
bàng hoàng khi rút cục không còn phải tìm đường vắng tránh mặt người. Những cảm
giác mới mẻ mãi không phai nhạt, mãi không làm Chử quen nổi. Đêm đêm Chử thấy
Tiên Dung thân thuộc bao nhiêu thì sáng ra chàng lại thấy nàng lạ lẫm bấy nhiêu, với
cái giọng mệt mỏi của người việc gì cũng đến tay, với vẻ dứt khoát khi sai phái nhờ
cậy, với xống áo mớ ba mớ bảy, với cung cách tự tin làm người đối diện bất giác lúng
túng, với lối bày vẽ nấu nướng ăn uống của nàng. Mà chẳng chỉ một Tiên Dung, mấy
thị nữ theo nàng ngày đó cũng làm chàng lúng túng. Chàng ngồi trên phản kê ở gian
giữa bần thần nhìn ra vườn chuối, chợt thèm vị nước chè xanh đặc cắm tăm không đổ,
uống bằng bát sành lúc đói, ngày nào xa xôi vẫn nấu cho cha. Chàng nhớ dáng cha
trong chiều heo may, tay bưng bưng phía trước, miệng chào người qua đường mà chân
vẫn không dừng bước, cái giậm trên vai. Chàng nhớ lúc chiều rơi, bến làng chao
nghiêng tiếng cười con gái. Những người con gái da ngăm ngăm đen, vai ngang và lưng
rộng, vú nẩy sau làn yếm những trưa mùa xuân làm cỏ ngô bên cánh bãi. Những người
con gái vội vàng kéo cạp váy che ngang ngực trần, tóc xòa mặt nước, để tiếng cười đuổi
theo chàng... 'ới ơi đổ giỏ cá ra này đổ giỏ cá ra... em về thưa với mẹ cha... em theo
chàng Chử... ơi ơi ơi... sông xa... Cơm thầm ăn với sung non cá kho tương thấm... ơi
ơi... có còn nhớ chăng... ấy ơi sao chẳng giao nhời...' 'Cha bố mấy con bà cô.' Cha rủa,
còn Chử thì vội vàng đẩy giậm về phía nước sâu, không dám nhìn về phía ấy, sợ cha
nhìn ra nỗi chộn rộn trong lòng. Sao nỗi niềm xưa chưa bao giờ chàng cảm thấy trước
Tiên Dung, người vợ kỳ diệu của chàng mà các cô gái làng mỗi lần gặp đều cúi đầu
cung kính. Chàng tiếc nỗi bối rối pha lẫn buồn rầu thuở trước, khi chàng lòng rộn ràng
vui mà vẫn không dám đối đáp với họ. Chàng tiếc buổi sáng xuân nơi bãi cát sát bờ dâu
ấy, tiếc hào quang da thịt Tiên Dung... Chàng lờ mờ nhận thấy mình buồn còn hơn cả
ngày xưa, ngày chàng đã tưởng đủ đầy là có tấm áo manh khố mà thay đổi, là có thể
đàng hoàng chòng lại những cô con gái vẫn chòng chàng, là bóng một người đàn bà vào
ra căn nhà nhỏ, là những buổi trưa như thế này, gió rải đồng về theo nắng heo heo, rảnh
rỗi ngồi đan cho vợ con cái rổ, đào hố trồng thêm bụi chuối, rồi chiêu khói thuốc lào
bằng bát nước chè xanh vợ ủ. Chử giờ là ông chủ. Chàng có tất cả, chỉ không có việc gì
làm. Chàng không biết phải làm gì, làm gì cũng có người xông ra đỡ. Tiên Dung đã có
lần cười: 'Đã là chủ thì phải biết việc của tớ. Nhưng chàng chẳng nên dúng tay vào việc
của tớ làm gì.' Giọng nàng lạt mềm buộc chặt. Chử thấy mình thật ngớ ngẩn, thật thô
lậu. Chử không biết Tiên Dung khi nói câu đó đã hồi hộp nhớ đất Phong Châu, nhớ một
người đàn ông chiều chiều giục voi ra giếng, tiếng rền như sấm dậy. Nhưng chàng rất lễ
phép với Tiên Dung. Chàng cũng hệt bao Lạc hầu Lạc tướng trẻ muốn cầu thân, luôn
luôn lễ phép, quá lễ phép. Họ làm nàng bực mình. Nàng đã thưa với vua cha xin không
Lê Minh Hà - Cổ Tích

phải lấy chồng, để bốn mùa rong chơi, coi chốn trần gian là tiên cảnh... Chử không biết
Tiên Dung đã hơn một lần cay đắng khi Chử lắng nghe nàng, nhất nhất thuận theo
nàng. Cả những đêm về, vườn chuối bên hè lá lạch phạch từng cơn gió trở. Đâu rồi
Chử, thằng người lạ, con khỉ độc, người đàn ông trần truồng lừng lững bước ra từ ruộng
dâu, giật gáo nước trên tay nàng... nhìn vào mắt nàng... vuốt vai nàng... ghé xuống... ập
xuống...

...Có một chiều đông rét ngọt, bầu trời xám mây nhăn nhúm, sông cũng nhăn nhúm
vì những cơn gió lạnh, một chiếc thuyền con ngược nước, ghé ngang bến làng. Thuyền
Chử.
Bốn năm rồi, kể từ ngày Chử xuống thuyền theo bạn xuôi sông, lòng khấp khởi.
Chàng đi chuyến này mong một vốn bốn lời, mà mong hơn cả là... Nàng Tiên Dung có
lẽ cũng biết hết cơ sự lòng chồng. Mắt nàng cười đấy mà lại buồn thăm thẳm.
Về sau Tiên Dung mới biết xuôi gần tới bể thì Chử bỏ thuyền. Lúc đó thuyền vừa
ghé bờ, bạn chèo cuống quýt chia nhau việc. Ông lão như đã chờ Chử từ đời kiếp nào
rồi, nên tiếng quát lẫn trong mừng rỡ: 'Thằng bé Chử sao bây giờ mới tới?' Chử thốt
rùng mình, thấy xung quanh người quen tự dưng thành người lạ. Chàng theo ông lão,
lên bờ đi mãi, đi mãi. Ba năm, sống nơi thâm sơn cùng cốc, Chử học được bao nhiêu
điều, cả phép lạ tịch cốc bất tử. Ba năm trôi qua như mới nửa ngày. Thì ông lão bảo
Chử cơ duyên của ông với Chử chỉ đến ngần ấy, cơ duyên thì hết, nhưng tơ duyên chưa
dứt, còn đạo thì vô cùng. Chử xuống chiếc thuyền con, chào đạo sĩ ngược về làng cũ...

Chuyện cổ tích kể rằng Chử truyền đạo lại cho Tiên Dung công chúa. Cả hai tịch
cốc, không ăn uống mà da thịt lúc nào cũng sởn sơ. Lòng họ đã lặng đến nỗi khi vua
cha điều quân khiển tướng tới trừng trị lũ nghịch tử, dù dưới trướng có bao tôi tớ quyền
phép đầy mình, vợ chồng Chử vẫn bình thản từ bỏ tất cả mà bay đi. Có điều quan tướng
vua Hùng cũng chả được gì ngoài hai mảnh đất thấp cao dưới bầu trời từ đó mang tên
bãi Tự Nhiên và đầm Nhất Dạ.

Đến miếng ăn miếng uống là cái ai cũng phải nhờ vào đó để sống mà Chử Đồng
Tử và Tiên Dung công chúa còn chả cần thì hỏi họ còn cầu gì? Họ chỉ cầu thêm đạo. Để
cho lòng yên vĩnh viễn. Họ sống vô cùng bình lặng. Không thèm khát những thứ người
đời thèm khát. Không bực bõ trước những điều làm người đời bực bõ. Nhưng mà buồn.
Chao ơi buồn. Chử hiểu ra rằng sự bình lặng trong hồn mình là sự bình lặng của kẻ đã
bất lực, đã biết không còn có thể reo vui vô cớ nữa. Đến cả những xót xa đau đớn năm
nào đã làm họ khao khát sống chàng và nàng cũng không thể nào nhớ nổi. Đến cả
những hy vọng cũng đã vĩnh viễn qua rồi. Em thân mến, nghĩa là Chử Đồng Tử và Tiên
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Dung công chúa cuối cùng đã đắc đạo. Trần gian tiên cảnh chỉ khác nhau đúng một
điểm ấy. Nơi tiên cảnh không thiếu một cái gì, nên người ta sống mà không cần hy
vọng.

Đến bây giờ nhà Chử vẫn sống thầm cùng những vì sao. Thỉnh thoảng nghiêng
tai xuống cõi trần ai, Chử Đồng Tử và Tiên Dung vẫn nghe được câu chuyện đời sau kể
về họ. Một câu chuyện tình đẹp và có hậu bậc nhất trong những thiên tình sử đã ngàn
năm được kể ở đất nước này. Công chúa kiêu sa vượt quyền cha lấy thằng đánh giậm
không có nổi manh khố cộc. Thật là có một không hai. Thật là cực điểm hạnh phúc. Rất
nhiều người mơ ước một hạnh phúc theo công thức ấy và rất thích vận thiên tình sử đó
vào mình.

Ai biết được, khi nghe thiên hạ kể chuyện mình như thế, ở nơi ấy, Chử Đồng Tử và
Tiên Dung có thở dài không?

3. Những kẻ lạ

Người kể cho cô gái nghe mấy chuyện này là một chàng họa sĩ rất trần quấy. Trong
cái nhìn của cô gái. Còn trong mắt của nhiều người thì anh ta trông có vẻ hơi bị quái:
Tóc túm một túm sau gáy bằng cái chun các bà hàng khô hàng ướt hay dùng để buộc
các gói lạc vừng cà dưa mắm muối, hệt cái đuôi gà vộc. Mắt thì sâu râu thì rậm. Miệng
lệch một bên trễ xuống hằn học một bên thì nhếch ngược như sắp cười phá vào mặt
thiên hạ. Chàng vốn là kiến trúc sư, một nghề ngon ăn vào thời buổi nhà nhà có tiền đều
muốn một chỗ ở theo kiểu lâu đài cửa vòm mái nghiêng chóp nhọn hay kiểu vi la bờ
biển ở những xứ sở rất đỗi xa xôi hay các loại biệt điện biệt phủ vân vân, hoặc chí ít thì
cũng là xây cho nhà cao cao mãi. Nhưng chàng nhất mực bỏ nghề đâm đầu vào nghiệp
vẽ. Nhìn chàng ta thõng thượt bên giá vẽ vừa huýt sáo vừa dịu dàng xoe xoe cái ngọn
bút lông chả ai biết chàng lâm vào tình thế mà nghệ sĩ thường nói phóng lên là một tác
phẩm sắp được để đời. Chỉ cô gái biết điều ấy. Cô hiểu chàng họa sĩ. Nghĩa là biết hết.
Biết cái cảnh cơm niêu nước lọ của chàng. Biết chàng đau đầu bởi bất kỳ thứ dung dịch
nào có dính vài phần trăm cồn. Biết chàng kỵ cái mùi mỡ chó lưu cữu trong bát trong
đũa trong mái rạ trong chiếu rải xềm xệp, nhưng chàng vẫn nhiệt tình gật gù cùng bạn
bè mỗi bận có tiền rủ rê nhau lên khu công nghiệp thịt chó Nhật Tân. Biết chàng khủng
khỉnh khi nghe ai chạm tới chuyện mở phòng tranh riêng chẳng qua chỉ vì chàng chưa
bao giờ đủ tiền làm việc đó. Cô gái hiểu chàng họa sĩ đến nỗi biết chàng không tỏ tình
với mình là vì mình không phát một tín hiệu tích cực nào, đến nỗi còn tiếc rằng chàng
đã không ngỏ lời với cô gái luống tuổi yêu bất kể ai có thể tự trang bị hoặc được đời
trang bị cho chữ sĩ: Kịch sĩ viện sĩ nhạc sĩ thi sĩ văn sĩ bác sĩ ca sĩ nhân sĩ chí sĩ vân
Lê Minh Hà - Cổ Tích

vân, mặc dù cô ta có lẽ cũng không hiểu lắm hai cái danh cuối cùng trong bảng liệt kê
này. 'Sẽ là tốt cho một nghệ sĩ nếu anh ta có một hậu phương vững chắc.' Cô gái ngồi
ôm đầu gối, thủng thẳng. Họa sĩ rướn vai cho cái áo may ô thủng một lỗ ở khu vực rốn
đỡ tụt: 'Thế còn em? Thế nào là tốt cho em?' Câu hỏi này họa sĩ đã hơn một lần đặt ra.
Cô mong một cái ước mong đàn bà, mong một hạnh phúc bình thường. Chàng họa sĩ
không tin câu trả lời của cô gái. Bởi vì cô sống rất không bình thường, từ kiểu tóc cho
tới trang phục, lúc thì ngổ ngáo kích động đến mức ai đi qua cũng phải kín đáo liếc một
cái, lúc lại xốc xếch đến mức khiêu khích và không khiến nổi một ai dừng mắt. Và cả
cái lối cô cứ dửng dưng đi theo chàng khắp nơi như thế này, như thể mọi sự đều là
chuyện muỗi. Chỉ có chàng biết là dù có được cô quan tâm săn sóc đến thế nào chăng
nữa thì cũng đừng mạo hiểm đặt tay lên vai cô với ít nhiều âu yếm. Chàng đã một lần
tận mắt thấy cô xoay người táng cho chàng trai ngồi bên cạnh một cái chả nhẹ nhàng gì,
rồi lại thản nhiên nói chuyện với chính cậu trai trông hết sức màu mỡ riêu cua ấy.
Chàng họa sĩ không bao giờ mạo hiểm. Chẳng hẳn là hiểm họa. Nhưng vô ích.

Cả lần này nữa chàng vẫn muốn nghe cô trả lời lại câu hỏi cũ. Và cô, không dưng
ngậm ngùi: 'Anh đã biết rồi mà. Em là hậu duệ của Tiên Dung cụ. Em sẽ sống bình
thường. Với một người chồng bình thường. Đẻ những đứa con bình thường.' Rồi cô
thêm: 'Nhưng mà hai năm nữa em mới sống thế.' Mắt cô lại nhoi nhói một ánh cười cợt
khi cô nói rằng cũng phải có thời gian để tìm người dám thí mạng vì cô, vì cái ước
mong thảm hại ấy của cô và thời hạn hai năm là cần thiết. Chàng họa sĩ rùng mình. Cô
sẽ đi với chàng như thế này, cùng trời cuối đất ở nước Nam này mỗi lúc nhãng đi được
chuyện chạy vạy áo cơm. Sẽ như thế trong hai năm nữa. Và ngay dù có ở chung một
căn nhà thuê với chàng thì cô vẫn là cô, hiện vật cấm sờ, bất khả xâm phạm. Điều đáng
sợ là trong lúc ấy ở thành phố ấy, vẫn chờ chàng là cô gái ấy, hàng tồn kho, chất lượng
tốt, quá tốt. Cô có một bà mẹ già rất mực thương cô đã tuyên bố sẽ cho con gáI cái cửa
hàng bán chè Thái mứt sen đang được khách. Cô có những đứa em trai đang hăm hở
làm chủ doanh nghiệp và những đứa em dâu rất đỗi nể chồng. Còn những đứa em gái cô
thì đã chứng tỏ khả năng lớn lao trong việc tề gia. Tất cả những đứa em trai và gái ấy
luôn luôn cười thương cảm bà chị luống tuổi lãng mạn và rất vui lòng trước việc cô sẽ ở
với mẹ. Tóm lại là kẻ nào lấy cô thì lập tức đâu vào đấy. Một người con gái có những
đức tính như thế sẽ chỉ nghĩ tới việc chiều chồng. Nhất là khi người chồng vô hại và
đang trên đà chứng tỏ một cái tích sự gì đó cô thiết tha mê mà không hiểu. Chàng họa sĩ
biết là nếu ngỏ lời với cô gái ấy chàng sẽ trở thành một người chồng như vậy, sẽ được
dằn vặt và chiều chuộng theo một cung cách màu mè và đơn giản. Nhưng bây giờ, ngồi
bó gối trên cái ba lô của chàng là cô gái này đây, cái cổ gầy, bờ vai mảnh, bò cả cây và
đôi giày khủng bố, nói năng lúc ngổ ngáo lúc chán chường, toàn bộ con người cô bộc lộ
một vẻ bần thần ơ hờ. Tất cả những điệu bộ đó, những quần áo giày dép cô mang vác
trên người đó càng làm cô thanh mảnh và huyền bí đối với họa sĩ. Cô làm chàng sờ sợ.
Chàng mơ hồ biết rằng thực ra cô vô cùng nhút nhát. Cô mỏng mảnh làm sao trước khối
hạnh phúc thì lì mà cô nói rằng cô mong ước cho mình, hai năm sau.
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Sẽ thật là phí thời giờ nếu cứ kể mãi về chàng và nàng. Chính họ cũng làm tôi sốt
ruột.
Dù sao thì câu chuyện nào cũng phải có kết thúc. Vậy chỉ xin kể về họ mấy năm
ám ảnh sau đó:
*. Cô gái hai năm sau vẫn chưa lấy chồng. Nhưng quả thật cô thôi hẳn những
chuyến đi dài cùng họa sĩ. Dù chàng rủ rất thiết tha. Dù những nơi xa xôi chàng tới quả
nắng vàng lắm cát trắng lắm người lành lắm đồ ăn rẻ lắm. Một nơi như thế thì không
thể đến được trong những dịp cuối tuần tranh thủ ăn chơi nhảy múa. Cô làm việc ở một
công ty trách nhiệm hữu hạn và lo kiếm thêm bằng những buổi tối đi dạy ngoại ngữ ở
các trung tâm nhiều như...
*. Cô gái con bà cụ chủ cửa hàng bán chè Thái và mứt sen đã thay mẹ toàn quyền
trong việc hàng họ. Cô có vốn riêng rất khá, đã lấy chồng là một chàng võ sĩ. Chàng
được phát hiện từ một phong trào quần chúng, đăng đài ở chốn kinh kỳ chưa bao lâu,
nhưng tiếng tăm đã rất dạt dào.
*. Chàng họa sĩ hồi đầu vì muốn được nghe kể về cô gái mà bây giờ chàng chỉ
có thể làm như ngẫu nhiên gặp trên phố đông người đã tìm cách làm quen với bạn học
cũ của cô, một cử nhân người gốc quê hiện đang bám trụ tại thành phố để kiếm việc.
Hồi sau: họa sĩ đưa người kể chuyện đi đăng ký kết hôn, bất chấp mọi lời dị nghị về
'giống ngắn ngày' của cô vợ hay tương lai làm 'cha tráng men' của mình. Sáu tháng sau,
chàng ngậm ngùi từ giã những chuyến đi dài để có thời gian lo cho vợ con. Một năm
sau thì cuộc hôn nhân đó tan vỡ. Không có màn chiến tranh hoa hoét chia của nả, vì cả
hai chẳng có của nả gì. Đứa bé được gửi về quê cho ông bà ngoại. Mẹ nó thì tiếp tục
sống trầy trật ở thành phố, nhưng lúc nào cũng ăn mặc rất đẹp và rất có ý thức nói sao
không lẫn lờ nờ. Họa sĩ từ đó đi đâu xa đều cố tìm cách về thăm thằng bé. Thằng bé giờ
đen đủi, nói ngọng, hiền lành, hệt ông bà nó. Nhưng mắt nó nhìn rất lạ. Cứ như dõi tìm
một cánh chuồn chuồn không một ai thấy. Chàng họa sĩ lúng túng đưa tiền cho ông bà
ngoại thằng bé. Ông bà già cũng lúng túng. Thằng bé thì lấp ló sau cánh giại. Khi gặp
mắt người vẫn xưng bố với nó thì nó tót một mạch ra vườn củ bột kiên nhẫn nở hoa sau
nhà. Từ đó vọng lại tiếng những thân cây dong riềng loạt soạt hấp hối dưới chân thằng
bé. Bao giờ từ nơi đó trở về chàng họa sĩ cũng thấy lòng thắt thẻo.

Chàng ngưng vẽ, nhận hợp đồng thiết kế từ cậu bạn đồng học nay đã là cai thầu
xây dựng có sừng có mỏ. Không phải tập trung trí não bao nhiêu. Cứ trình ra hình một
ngôi nhà có mái nghiêng mái dốc mái bằng tùy theo vốn liếng của chủ nhà, ban công
chấn song sứ hay mặt tiền ốp kính toàn phần, kính màu lấy ánh sáng chỗ cầu thang, và
thường khi lại có cả một cái ô tô con đỗ trước cửa đầy hoa cỏ mặc dù thực tế thì chẳng
mấy nhà có được mảnh đất đầy đủ các điều kiện không gian lý tưởng như thế. Trông rất
gì gì và này nọ. Là xong.
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Chàng quay ra đọc thơ. Toàn thơ hiện đại cũ. Nghĩa là có vần, có nhạc, có họa, có
những nỗi sầu cớ nhỏ và dai dẳng, có vẻ hơi dễ dãi trong mắt các nhà thơ đầy ý thức
hiện đại hóa thơ ca bây giờ. Sau tất cả những cái 'có' trong thơ ấy, họa sĩ luôn luôn đọc
ra độc một chữ 'không'.
Chẳng hạn những câu như thế này:
- Mấy hôm nay gió dại tới ven đồi
Cây không hẹn để ngày mai sẽ mát
Trời đã thắm lẽ đâu vườn cứ nhạt
Đắn đo gì cho lỡ mộng song đôi....
- Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người...
Hay
- Nắng đã xế về bên xứ bạn
Chiều mưa trên bãi nước sông đầy
Trông vời bốn phía không nguôi nhớ...
- Ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung
Có ai đàn lẻ để tơ chùng
Có ai tiễn biệt nơi xa ấy
Xui bước chân đây cũng...
Hay
- Ngoài ba mươi tuổi duyên còn mất
Một ván cờ thua ngả bóng chiều
Ai khóc đời ai trên bấc lụi...
- ới ơi dâu bể mòn thương nhớ
Gỗ đá còn trơ gỗ đá thôi
Lớp lớp yêu thương tình chật hẹp
Mùa xưa thông cảm đã qua rồi...

...Chàng đọc, và hiểu rằng rồi chẳng bao lâu nữa những niềm tâm cảm như thế này
sẽ tan biến. Ai có thể sống chậm lại để đọc lại những câu thơ như thế? Mà đọc ở đâu?
Trong tiếng rú bất thình lình của một chiếc xe máy vừa lao vào ngõ? Trong tiếng hát
karaoke? Trong bụi bặm? Nhưng điều đó mới đáng tiếc làm sao. Không phải đáng tiếc
cho thơ. Đáng tiếc cho con người, không còn và không biết rằng cần phải có những
khoảng thời gian chậm rãi, để lắng lại, để chao đi, trong muôn vàn nỗi yếu đuối đẹp đẽ
thật đời. Chàng chợt hiểu vì sao cô gái rất hay đọc thơ mà luôn luôn rẻ rúng thơ, rẻ rúng
thơ như một phản ứng tự vệ. Trong cô đã ăm ắp nỗi bơ vơ thơ ấy, nỗi định mệnh dành
cho những người chỉ thấy đời đẹp trong sự bất toàn. Tờ giấy Croki vẫn ghim trên bàn,
theo cách để thực hiện một bản vẽ kỹ thuật. Gần như vô thức, họa sĩ nhúng ngòi bút
lông vào đĩa mực, cúi mình, đặt những vòng tròn đầu tiên. Những vòng tròn đen nhánh,
móc vào nhau, lồng trong nhau. Nét đậm. Nét mảnh. Nét đậm. Nét mảnh... Đè. Nhòe.
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Họa sĩ đứng thẳng người, nhìn trân trân tờ giấy giờ chỉ còn là những mảng đen
trắng tạo bởi vô số vòng tròn. Những vòng tròn xoay cuộn. Như là biển. Như là bão.
Như là bóng đêm. Như những con mắt. 'Em!' Họa sĩ nặng nề để người tuột xuống, dựa
lưng vào tường, nhắm mắt, tưởng tượng cho những đôi mắt kia một khuôn mặt. Môi
mong mỏng hồng hồng. Cánh mũi phập phồng con trẻ. Tóc xanh nghiêng má gầy. Cần
cổ mảnh khảnh tơ non.
Bất chợt... Có thể là họa sĩ hơi bị hoang tưởng... Chàng thấy bao nhiêu mặt mình
trong những con mắt. Buồn bã. Dò hỏi. Não nề và trâng tráo. Ơ hờ và cuồng dại... Một
thế giới mắt... Bao nhiêu khuôn mặt của chàng... Lần đầu tiên chàng thấy.

Sau hôm đó, họa sĩ tung hê những bản thiết kế và những hợp đồng dang dở, lầm
bầm chửi lại ông bạn chủ thầu đang điên khùng chửi mình, và lại quay ra vẽ. Chẳng
người mẫu. Chẳng những chuyến đi xa. Tranh của chàng chỉ độc những vòng tròn mà
chàng không thể và không muốn giải thích rằng đó là những đôi mắt. Độc mắt là mắt.
Và họa sĩ mở phòng tranh. Bằng tiền của ông bạn chủ thầu vẫn không tiếc lời rủa
chàng là quân rồ dại và luôn làm chàng vừa xấu hổ, vừa cảm động, vừa bực mình. Bức
tranh nào chàng cũng đề giá bán trên trời. Thực ra, chàng không định bán những đôi
mắt. Ai có thể chuốc khuôn mặt mình chết đuối trong đó?

...Phu nhân của chàng võ sĩ đã cùng chồng đến đúng hôm phòng tranh khai mạc.
Nàng làm họa sĩ bất ngờ. Tự nghĩ mình không phải bao nhiêu lần với bao nhiêu người.
...Một ngày, khi họa sĩ bắt đầu lại ngấy chính mình và luôn tìm ra cớ để rời phòng
tranh, cô gái bước vào. Đi một vòng. Kinh ngạc. Buồn bã. Dừng chân trước bức tranh
nhỏ nhất, cô gái ghé nhìn mấy dòng chữ lờ mờ ghi ở tấm biển ghim bên dưới. Cả bức
tranh ấy cũng đã bán. Cô gái thở dài, không để ý đến người đàn bà đang ý tứ để lại cuốn
sổ ghi cảm tưởng và mỉm cười mời mọc. Ngoài kia, chiều nắng xôn xao. Lá óng ánh
ngàn con mắt.

Cô gái biết rằng khi họa sĩ khám phá ra cái mặt mình, chàng đã quên cô.

4. Thất thanh

Chỉ có một Tiên Dung.


Lê Minh Hà - Cổ Tích

Chỉ có một Chử Đồng Tử.


Tiên Dung và Chử Đồng Tử vẫn sống, ở một nơi xa lắm, nơi không ai còn phải
ước mong gì.
Người xưa kể như thế.

2. 2001
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Tiếng trăng

'...Hò khoan mơ bóng con đò trôi... Gió đưa câu


ca về đâu...
Trương Chi -
Văn Cao

Khuya lắm. Trăng nửa vành đã xế. Trương Chi đẩy thuyền ngược nước. ánh trăng
rưng rưng trong sóng tự xé làm đôi trước mũi thuyền. Lòng chàng chờn vờn một giai
điệu u hoài. Con thuyền và chàng từng lúc lút đi trong bóng sẫm của những lùm tre ở
những khúc sông hẹp, rồi lại lầm lũi vượt ra với ánh trăng. Trương Chi dừng tay sào ở
gần ngã ba sông. Nơi ấy, ánh trăng dường như mênh mang hơn. Nơi ấy, có lầu quan
thừa tướng dựng cho con gái yêu... bờ bên lở...

Trương Chi cắm thuyền, ngửa mặt tìm trăng, cười khan. Trăng nửa vành kiêu
hãnh và hiu hắt. Trương Chi yêu trăng. Dưới trăng, chàng biết mình bớt phần xấu xí.
ánh trăng nhân hậu xoa mịn làn da mặt sần sùi của chàng. Trăng tạo những khoảng tối
những vũng sáng cần thiết làm cho cái mũi bè bè của chàng dường như cao lên, quai
hàm bạnh của chàng dường như mềm mại lại, cái nhìn vừa soi mói vừa rụt rè của chàng
bớt phần khổ não. Trương Chi biết vẻ xấu xí của mình là vẻ xấu xí không cá tính. Đấy
là đường nét bộ dạng của kẻ lam lũ nhiều đời. Điều đó làm chàng đau khổ. Giá mà
chàng xấu xí kiểu một kẻ thành đạt, hay kiểu con cầu tự nhà giàu, hay đơn giản là xấu
xí kiểu một kẻ cướp đường, có lẽ chàng sẽ tự tin hơn.

Trương Chi cầm cái chày gõ nhẹ vào sợi dây căng sát mạn thuyền. Tiếng chày gọi
cá đục trầm rớt xuống đáy nước, dội lại thành tiếng gõ cô độc trong ngực Trương Chi.
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Chàng quên chuyện giăng câu. Trương Chi nín hơi, rồi bất chợt cất tiếng. Giọng
Trương Chi không bốc cao thơ thới như nhiều đêm trước mà giống như một tiếng thở
dài, hay một tiếng gầm gừ:

'Ôi những con cá khát trăng


Có biết điều ấy ngu ngốc
ýnghĩ về hạnh phúc không phải là hạnh phúc
Le lói, sáng bừng, tắt lịm
Chỉ làm tan nát lòng
Trăng là không
Ta cũng không...'

Tiếng mõ dội từ phía lầu tây bên kia ngã ba sông nơi bờ lở nghe vô sự. Trương
Chi đột ngột dừng tay gõ nhịp. Chàng nhăn mặt. Cái bóng đen dị hình trên lầu biến đi,
rồi lại hiện ra. Trương Chi biết đấy là lính canh đổi gác. Đã canh tư rồi...

Nhịp đã lạc đi. Những bầy cá chơi trăng đã biến vào lòng sông tối. Trăng đang lặn
về phía sau lầu của Mị Nương. Trương Chi ngồi bất động, dõi ánh trăng mờ dần trong
sóng nhỏ. Chàng không thể nào nắm bắt được ý nghĩ của mình. Giai điệu cũng bay đi.
Đến tận lúc ánh ngày sắp rạng, chàng mới lặng lẽ rút sào đẩy thuyền xuôi bến. Lòng
thuyền của chàng chỉ óc ách nước với vài ba con cá dói câu được tự lúc đầu đêm.
Chẳng đủ cho bữa gạo trong ngày. Trương Chi ngửa mặt. Trăng chỉ còn là một mảnh
bẹt dí dán thẳng vào lòng trời, nom bệch bạc. Lòng Trương Chi thấm buồn, một nỗi
buồn khó hiểu, làm người ta có cảm giác bất an trước ngày mới. Chàng thấy trăng dơ
dáng và thóc mách, còn mình thì dớ dẩn.

Nhưng đêm đêm Trương Chi vẫn đẩy thuyền ngược về ngã ba sông. Chàng nghiện
trăng nước mùa này. Sương phả từ trời cao xuống. Sương dâng từ đáy sông lên. ủ kín
bờ cây và thôn xóm. Trắng xóa. Lạnh và đặc. Mà đột nhiên trong vắt, nhẹ bẫng, thơ
thới khi trăng hiện. Trăng làm rung những cảm xúc không thường trong hồn Trương
Chi. Chàng phát hiện ra cõi lòng con người là vô hạn và chàng sững sờ. Chàng quên
hết. Quên túp lều dựng ở cuối làng ngày ngày chàng vẫn chui ra chui vào ngóng chiều
rơi để xuống thuyền ngược xuôi theo con nước. Chàng quên chuyện giăng câu, quên
cảnh nước sông gạo chợ thúc bách từng ngày. Chàng quên ngôi nhà nhỏ bên bến đò
ngang dưới gốc gạo đầu làng và cả cô lái đò hình như rất nhiều tình ý với chàng. Quên
con đò nhỏ mà chàng đã muốn neo đời mình vào đó. Còn lại với chàng, dưới trăng, chỉ
những cung bậc ấy. Cay đắng ư? U hoài ư? Trương Chi không bao giờ tự hỏi có ai đang
Lê Minh Hà - Cổ Tích

lắng nghe mình. Chắc không ai. Người làm lụng vất vả nơi thôn ổ cần giấc ngủ, có
chăng họ chỉ nghe được dăm ba câu vọng lại từ sông vắng khi đánh thức lũ trẻ bò dậy
ra làm một bãi vào cái nồi chõ đặt cạnh chuồng lợn, hoặc giả cái lúc canh khuya vợ
chồng đột nhiên tỉnh giấc quờ tay tìm hơi ấm của nhau. Nghe chàng hình như chỉ có
những bầy cá theo trăng, những con rắn uốn mình trong bụi tre, và triệu triệu giun dế
quần cư hai bên bờ nước. Trương Chi hát như tự đày đọa. Đó là điều duy nhất chàng có
thể làm để tự khẳng định mình còn sống.

'Thoảng như có tiếng ai cười


Đời vui sao anh
Thoảng như có tiếng thở dài
Đời buồn sao em
Ta đi trong ngày
Hôm qua nghe tiếng thở dài
Hôm nay nghe một giọng cười
Ngẩng mặt dõi tiếng chim xanh
Cúi đầu tìm lá cỏ gầy
Dưới trăng này, nay, mình ta gõ mạn thuyền hát
Dưới trăng này, nay, mình ta và trái đất
Cõi nát bàn đâu
Chốn u tì đâu...'

Lời ca âm thầm cắn rứt lòng chàng. Trương Chi gầy rộc đi. Nhưng đó còn vì
chàng không đủ tiền gạo muối hàng ngày. Cô lái đò hốt hoảng không biết phải làm gì.
Cô không thể lôi Trương Chi từ con thuyền nát của chàng vào ngôi nhà của hai cha con
mà chăm bẵm. Cũng không thể cắp quần áo chui vào túp lều rách bên rệ đê cơm nước
hàng ngày cho Trương Chi. Chung một phận nghèo, có sá gì miệng tiếng ở đời, miễn
nên cháo nên cơm với nhau mà không bị làng phạt vạ. Nhưng cô lái đò không được làm
bất kể điều gì mà cô có thể nghĩ ra. Bởi bây giờ, những chiều muộn, không thấy Trương
Chi ghé con thuyền nhỏ, trò chuyện với cha cô và khách qua đò mà như ngóng đợi cô
cầm sào xuống bến. Cô không tưởng ra rằng Trương Chi không còn muốn thấy lại cô.
Nếu biết, cô sẽ thẹn suốt một đời và có lẽ sẽ tức tối. Còn làng xóm hẳn buồn cười.
Không ai biết rằng Trương Chi đã dằn vặt mình chỉ vì thế suốt bao nhiêu ngày ngồi ủ ê
nơi cửa lều ngóng chiều rơi chậm. Chàng bỗng nhiên sợ cái hạnh phúc đầm ấm rất đỗi
bình thường kia, sợ chạm mặt ngày ngày với người con gái tốt bụng thiết tha với giọng
hát của chàng nhưng đã cứng tuổi và nhẹ phần duyên sắc. Mà chàng thì xấu xí và nghèo
hèn.
Chàng xót xa vì ý nghĩ của mình. Vì niềm đau tủi bởi bồ côi bồ cút từ tấm bé. Vì
xấu xí một cách bình thường và nghèo hèn quá mức bình thường. Vì dòng sông mà
chàng không bao giờ có thể vượt được tới nguồn hay xuôi được về tới cửa. Vì chàng đã
không thể ao ước chỉ một mái nhà, một người đàn bà, một chiếc đò ngang.
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Bây giờ, hàng ngày Trương Chi ngược xuôi giăng câu ở khúc sông cạn cuối làng.
Nhưng cứ nửa khuya là chàng lại không sao cầm lòng nổi, lại đẩy thuyền ngược nước
về phía ngã ba sông. Đã sắp rằm. Trăng đã bắt đầu tròn. Dưới trăng trong biếc, hàng
cây, bến nước, nhà cửa chòm xóm đôi bờ nom xa xa gần gần không thực. Lầu Mị
Nương cao vượt lên trên các làng mạc xung quanh. Có bao nhiêu lời đồn đại quanh
ngôi lầu quan thừa tướng xây riêng cho con gái yêu. Rằng nàng ra ở đó tránh cảnh dì
ghẻ con chồng. Rằng Mị Nương đẹp chim sa cá lặn nhưng chưa tìm đuợc duyên lành.
Rằng nàng đi một bước là phải có thị nữ cầm quạt hay xách hỏa lò theo hầu tùy mùa.
Rằng nàng tài đàn sáo cũng như thơ phú, lại khéo chuyện thêu may. Không ai biết có
bao nhiêu thực hư trong những lời đồn đại được lan truyền trên những chuyến đò. Chỉ
một mình Trương Chi biết về nàng nhiều nhất. Điều ấy làm chàng đau đớn, vĩnh viễn
đau đớn.

Chàng tức điên lên khi hình dung lại cái cảnh mình lùi lũi đi dọc bờ sông theo
người lính canh lầu để làm cái việc mà kẻ đó vừa bỡn cợt vừa hách dịch thông báo:
'Tiểu thư đòi. Rảo cẳng lên! Ai mà thèm con thuyền nát của chú mình. Lên trên ấy hát
cho tiểu thư nghe. Này, tình thực với chú mình, chú mình hát nghe buồn bỏ mẹ. Chỉ tổ
làm chúng anh nhớ nhà. Mà giờ có hát thì hát cho hay hay vào. Chắc tiểu thư sẽ thưởng
cho vô khối... ối chao ơi là nhà có!' Trương Chi không hiểu sao cái giọng hách dịch ấy
bỗng dưng nhuốm một âm sắc buồn thảm. Nhưng chàng không nghĩ tiếp được bởi cả
hai người lúc đó đã trèo hết bậc thang dẫn tới cửa lầu. Chàng căm ghét mình đã luống
cuống khi bước vào phòng Mị Nương. Chàng run lên vì thẹn khi mường tượng lại tiếng
hát của mình chấp chới bay lên giữa bốn bức tường, dưới những con mắt và những cái
cười nửa miệng, nửa tò mò nửa chế nhạo. Chàng không biết chính vẻ ngần ngại và bộ
dạng xấu xí của chàng đã làm cho chàng có một vẻ hiền hậu nghiêm trang khiến Mị
Nương kinh ngạc. Cả giọng hát của chàng đêm đó cũng làm nàng kinh ngạc. Và thất
vọng. Thiếu một nốt bí ẩn vẫn làm trái tim nàng se thắt và hoàn toàn không vang vọng
những ngân rung đã khiến nàng say mê.

Trương Chi cũng kinh ngạc khi chỉ hát độc một bài đã được thưởng hậu rồi cho lui.
Chàng không vui mừng mà xấu hổ. Thoạt đầu chàng hay mường tượng lại vẻ mặt ngán
ngẩm hờ hững của Mị Nương và đồ rằng đó là vì nàng vừa nghe lại vừa phải nhìn
chàng. Mà chàng thì xấu xí. Nhưng về sau thì chàng biết. Chàng biết giọng chàng đã bị
phô trong ánh đèn nến tưng bừng. Thiếu bè trầm rào rạt của sông đêm, thiếu nhịp chày
gọi cá khô khô đùng đục, thiếu tiếng gió vút trên những chòm tre thôn xóm đôi bờ,
thiếu tiếng cá quẫy đột ngột đầy hứng khởi và tiếng ngàn ngàn lá ngô lay đêm gió trở,
thiếu những đốm lửa lập lòe đầm ấm trong xóm bãi, thiếu cái tịch lặng vĩnh cửu của trời
đất, giọng chàng mới thô và trơ làm sao. Trương Chi không biết rằng Mị Nương trong
những đêm thiếu nữ mất ngủ cũng dần dần hiểu ra điều đó và ân hận. Nhưng nàng ân
Lê Minh Hà - Cổ Tích

hận nhiều nhất là vì đã vượt quá phép nhà, đã cho gọi Trương Chi vào lúc nửa đêm về
sáng.

Chàng không biết rằng những đêm chàng cắm thuyền chìm đắm trong trăng thì trên
lầu cao Mị Nương vẫn ngồi bên cửa sổ. Nàng biết mình ngóng chờ gì. Trăng sáng xanh,
xa rợn. Nàng ngạc nhiên thấy lòng bơ vơ.
Nếu nàng biết được những đau đớn và u uất trong lòng Trương Chi, hẳn nàng sẽ ân
hận nhiều hơn thế nữa và theo một cách khác. Một đêm khuya khoắt, Trương Chi đẩy
thuyền ra giữa ngã ba sông, thả nén bạc mà thị nữ của Mị Nương đã đặt vào tay chàng
khi Mị Nương cho chàng lui gót. Nén bạc sáng mờ mờ dưới ánh trăng lu, rơi rất ngọt
vào lòng sông tối làm vang lên một tiếng động, nặng, trầm, sâu hút.

Vào khoảng thời gian đó, cô lái đò đã nhận lời làm lẽ một ông lý cựu góa vợ nhà ở
làng gần cửa sông. Cô đã hoài công nhiều đêm ngóng lại tiếng hát Trương Chi. Nỗi nhớ
tiếng hát của chàng làm cô mệt mỏi. Ông lý cựu có lần qua bến đò bị cảm phải dừng
chân một đêm tại nhà cô đã nhìn ra trong dáng dấp đàn bà bắt đầu cằn khả năng quán
xuyến bầy con gà vịt mất mẹ của ông, nhờ người đem trầu cau đến hỏi cô chính vào đận
ấy. Cô lái đò chợt hiểu ra rằng tiếng hát hay có chăng cũng chỉ làm người chếnh choáng
khi nó cứ chơi vơi hoài dưới sông kia. Nhà ông lý đón dâu bằng đò dọc. Ngang qua túp
lều nát nép mình ở rệ đê của Trương Chi, khách ngồi đò tiện miệng nhắc đến người bấy
lâu nay bặt giọng. Cô lái đò cúi nón, nhớ cha già một mình ở lại với con đò, bỗng dưng
thấy khiếp sợ sông nước.

Trương Chi có nghe về đám cưới của cô lái đò. Chàng càng ngày càng gầy, tơi tả.
Không ai biết chàng sống thế nào, chỉ có mấy bà già thỉnh thoảng nhắc chừng lâu
không thấy Trương Chi vào xóm rao bán cá. Có người đồ chàng bị ma da chài. Trương
Chi cười ơ hờ.

'Dù không bao giờ còn về bên nhau


Ta thầm mong cho nhau điều lành
Phải không em...
Nắng se sợi
Con đò
Vẫn con đò xưa hình như sang chậm
Chiều tan
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Cánh chim trời


Hay những tro tàn
Bay loạn ngoài chân mây...'

Trương Chi vẫn chỉ hát thầm. Chiều buông trên cánh bãi. Chàng rút sào đẩy thuyền
tách khỏi bờ, mím miệng:

'Thì cũng là người phải không


Những con ma dưới lòng sông tối
Ta là người
Đúng rồi
Ngày mai chết đi sẽ thành ma mới
Chết trẻ khỏe ma
Biết đâu chừng lại có thể hát ca...'

Lời ca luẩn quẩn trong trí chàng từ lúc đầu đêm cho tới lúc chàng đẩy thuyền
ngược về ngã ba sông. Đêm nay Trương Chi gỡ câu sớm. Trăng suông, sáng nhờ nhờ,
rất lạnh. ánh trăng lễnh loãng tan vào trong sương bạc làm nhòe những khoảng tối sáng.
Mặt nước không lung linh như những đêm trăng tròn vằng vặc mà phẳng lặng và vô
cảm. Trương Chi dừng thuyền. Một cánh chim gì loáng qua bóng trăng suông, không để
tiếng. Trương Chi nhớ chị và nhớ mẹ. Mẹ chàng chết từ lúc chàng còn tấm bé. Chị
chàng cấy gặt thuê đồng xa đồng gần nuôi em. Đến tận ngày tậu được cho em con
thuyền nhỏ. Chị lấy chồng xa, nhà nghèo, chẳng mấy thuở chị em gặp mặt. Trương Chi
khum hai bàn tay vốc nước vỗ mặt. Nước sông tanh tanh man mát, phảng phất mùi
tháng năm tàn. Chàng thở dài, cất tiếng:

'Ta giữ nắng mùa thu


Ta giữ gió mùa thu
Không ai hỏi tại sao...
Giá em đi bên ta
Đừng nói...
Trên lá vàng lại thêm lá vàng nữa
Trên nỗi buồn lại thêm nỗi buồn nữa
Cuộc đời ta...'

Xóm làng còn thức cả. Nghe tiếng hát Trương Chi có người đàn ông gật gù lặng lẽ,
có người đàn bà cười văng cả nước cốt trầu: 'Thằng Trương Chi khéo rồi thành dở
người. Hát mấy chả hò. Không vợ không con, độc con thuyền nát, mà còn phởn...' Tất
cả thở dài, lắng nghe trong lòng thức dậy một khao khát không thể nào hiểu nổi và chưa
Lê Minh Hà - Cổ Tích

bao giờ có ai để mất thì giờ vào đó. Tiếng hát Trương Chi lồng lộng đêm thanh vắng,
mênh mang xô dạt phía ngã ba sông:

'Này tôi ơi lềnh đềnh ở đâu thì về đi thôi


Trời trong lắm nắng xanh lắm
Hoa hình như đã nở ở đâu rồi
Này tôi ơi về đi thôi về đi thôi
Về bến làng xưa có người giặt áo
Về với sông xa mắt đò đau đáu
Tần ngần làm gì về đi thôi về đi thôi
Lềnh đềnh ở đâu tôi ơi về với tôi
Những bến bờ xa xôi xa làm sao bằng bến ấy
Tới làm sao khi mãi mãi một mình
Đừng lênh đênh tôi ơi thôi đừng lênh đênh
Ơi hời ơi... Nhi bất hoặc... ơi hời... ấy a ta cười... ấy a... ta cười... cười với ta...'

... Không bao giờ dân các làng quanh ngã ba sông còn được nghe lại tiếng hát
Trương Chi. Chàng đã hát bao năm tháng như một đam mê và, bằng nỗi tuyệt vọng, đã
vĩnh viễn tiếng hát của mình thành một đam mê trong lòng người khác. Chàng sung
sướng vì đã làm được điều đó. Với chàng, đó là một hồi sinh xót xa.

Buổi sáng, khi mù sương đã tan, người qua đò tới chợ huyện họp bên cánh bãi kinh
ngạc chỉ trỏ chiếc thuyền con đang quay quay giữa dòng. Nơi ấy có một xoáy nước mà
người lớn vẫn răn con trẻ không được lai vãng ra đấy ngộ nhỡ thuồng luồng rút cẳng.
Có người đàn bà nạ dòng thu xếp chỗ ngồi xong chìa cho người ngồi cạnh khẩu trầu:
'Này! Nhai một miếng cho ấm. Cơ khổ cái nhà anh Trương Chi. Mới đêm qua còn thấy
hát. Lâu lắm rồi... ấy ấy, chụp cho tôi cái nón... Lâu lắm rồi mới thấy anh ta hát lại.
Nghe chỉ thấy toàn những tôi tôi với ta ta. Cơ mà hay lắm. Nhưng cũng kinh kinh. Như
gọi hồn...'

Trương Chi không biết rằng chết đi tên chàng lại được nhắc nhớ nhiều đến vậy.
Trong câu chuyện cổ tích có lẽ là thơ mộng nhất và được nhiều người lớn nghe nhất.
Một câu chuyện như thế, có giàu có nghèo, có gái có trai, có trăng có nước, có tình mà
không duyên, có bệnh tật và suýt nữa là có tới những hai xác chết, lại còn có cả thơ
bình rõ là vần 'Nợ tình chưa trả cho ai - Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan', làm
gì mà chẳng lắm người nghe rồi cùng tương tư. Nào ai biết nỗi lòng chàng. Nếu biết
trước điều này, không rõ Trương Chi có thể tuyệt vọng hơn không? Hay có thể, chàng
sẽ chỉ bớt phần sung sướng lúc gieo mình xuống nước. Cũng có thể là cái mũi bè bè sần
Lê Minh Hà - Cổ Tích

sùi của chàng sẽ đỏ lên một chút khi chàng mỉm cười hờ hững, và chàng vẫn sẽ đẩy
thuyền tới đúng ngã ba sông ấy, chỗ có cái xoáy nước hút được cả trâu mộng ấy.

Tích cổ kể rằng ai uống nước trong cái chén làm từ trái tim hóa đá của Trương Chi
cũng đều thấy hình một chàng trai chèo thuyền qua lại. Cái chén sau về tay Mị Nương,
lúc đó đã yên bề, nhưng rất buồn trong cảnh gia thất. ở mọi dị bản, tôi không tìm thấy
một lời nào về lần cuối cùng nàng được nghe lại tiếng hát Trương Chi. Khi Mị Nương
kề môi miệng chén, trong lòng chén không thấy hiện dòng sông và con thuyền của
người trai nghèo khổ, xấu xí và cô đơn ấy như lời đồn. Chạnh lòng, nàng ứa nước mắt.
Những ngón tay ướt lệ Mị Nương ấp vào chén, cái chén bỗng tan dần thành máu. Tiếng
hát Trương Chi nổi lên, lộng bốn bức tường, huyền nhiệm. Là trăng rưng rưng. Là mái
dầm khua bịn rịn khi bờ tách khỏi đò. Là bão trên nguồn. Là giông trên sông ngày hạ.
Là nắng xôn xao chòm tre buổi bình minh lên rất chậm. Là những sợi khói lả vào vòm
xoan vừa xanh lại trong chiều. Là tiếng lá ngô lay một ban trưa mùa xuân phơi phới và
ẩm ướt. Là tiếng người vỗ áo bến sông xưa...

Sau hôm đó, Mị Nương sai người cắt mảnh chén chưa tan hết thành cái mặt nhẫn
hình trăng, luôn đeo không rời. Gióng trúc quý định dùng làm cây sáo mới nàng cho
quăng xuống bếp và kẻ hầu người hạ đem dùng làm ống thổi lửa.

9. 2000

Chú thích: Ngoài ý lấy từ Trương Chi của Văn Cao: 'Ngồi đây ta gõ mạn thuyền ta ca
trái đất còn riêng ta...', hầu hết lời ca của nhân vật trích từ thơ Đỗ Quang Nghĩa.
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Sơn Tinh Thủy Tinh

Phong Châu chiều xưa. Có người ra bến. Tiếng quân truyền vang. Nắng rung. Gió
rung. Nước êm đềm rung. 'Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao.' Tình yêu
thần thánh phải được chứng bằng sự diệu kì thần thánh.

Con không phải là tiên nữ, phụ vương ơi. 'Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín
hồng mao. Sơn Tinh đã đưa quân về lại núi Tản rồi. Thủy Tinh đã đưa quân trở lại biển
khơi rồi. Con không cầu sống trong cung trên núi. Con không cầu sống trong cung
dưới biển. Xin cho con ở lại với bến bãi này, với buổi chiều này, theo chân bầy thị nữ
ra sông gánh nước. Cho con được túm váy đi men bãi cỏ may miên man nghiêng theo
tiếng gió rải đồng. Xin cho con ở lại, khi con còn chưa biết phương trời nào mới thực
là đất sống nếu như con nhất định phải ra đi. 'Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín
hồng mao. Để làm gì phụ vương ơi!

Phong Châu đêm xưa. Có nàng gái đăm đắm nhìn đêm tối. Gió rào rạt ngoài bãi
vắng. Cơn khát lạ lùng làm rát cổ họng nàng. Mị Nương lần ra phía chái buồng, gắng
động thật khẽ để không đánh thức bầy thị nữ. Sương dày buông bủa lấy nàng. Mị
Nương rùng mình. Gáo kề môi đưa cái mùi sông nước quen thuộc mà hôm nay bỗng lạ.
Bàn tay Mị Nương chao đi, nước sóng ra vạt váy làm nàng giật nảy mình. Đùi gái non
nóng bỏng lạnh rợi đi một mảng.

Cuộc gặp gỡ ban chiều trước sân chầu thốt nhiên lại hiện về, lại làm nàng thảng
thốt. Những kẻ cầu hôn người trần mắt thịt đã lui rồi. Chỉ còn lại thần Non thần Nước.
Vua Hùng đưa mắt nhìn theo bầy cò vẫy cánh sáng rợn lên trong nắng, do dự rồi quả
quyết:
Lê Minh Hà - Cổ Tích

- Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao. Ai mang đồ sính lễ tới đúng lúc
mặt trời lên, kẻ ấy sẽ được thành thân với con ta. Quân đâu! Hãy tiễn hai vị thần về
nguyên quán và hẹn ngày gặp lại.
Mị Nương không thể nào quên. Sơn Tinh cúi đầu thi lễ rồi vẫy quân lui gót. Chàng
chỉ nhìn nàng có một lần, lúc mới bước vào sân chầu. Cái nhìn bình tĩnh, thân mật và
đầy chế ngự. Thần núi Tản đã biết rồi ư? Rằng chàng sẽ cưới nàng, bất chấp thần và
người khác. Giả dụ không có mắt nhìn của Thủy Tinh, có lẽ nàng sẽ khô lại, sẽ hóa
thành cây thành đá. Hay sẽ riu ríu bước chân theo gót Sơn Tinh nếu lúc đó cha nàng
lệnh cho nàng.

Nàng vẫn là nàng, đêm nay, bừng bừng, bồn chồn, thảng thốt. Chỉ bởi đôi mắt
Thủy Tinh. Mênh mông lắm êm đềm lắm. Nàng biết sắc vóc của mình đã làm chàng trai
ấy choáng váng và say đắm. Điều nàng kinh ngạc vì không thấy ở Sơn Tinh. Thủy Tinh
đã dõi tìm mãi mắt nàng trước lúc tạ từ vua Hùng để trở về. Nàng không biết ngày mai
nàng sẽ là vợ của ai trong hai người đàn ông thần thánh ấy. Nàng đâu có quyền chọn
lựa. 'Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao'. Cha có cần đâu phải không cha?
Cha đã biết cha muốn gả con cho ai trong hai vị thần mãi mãi trẻ trung, mãi mãi đầy
sức mạnh. Cha đâu biết con cha đêm nay không ngủ. Trời sắp rạng rồi...

Mị Nương thiếp đi. Trong giấc mơ, nàng thấy Sơn Tinh và Thủy Tinh nắm chặt hai
cánh tay mình. Hai vị thần nâng nàng lên, và họ bay, bay đi mãi. Mặt đất rất xa. Nắng
chói lòa và xung quanh họ là một bầy cò cánh sáng rợn. Không, không phải, đấy là
mây. Mây bồng bềnh êm như gối, nhưng sao lạnh buốt. Còn dưới kia... Cái gì nghiêng
nghiêng như dáng một dòng sông. Nàng thấy mình bấn loạn, tan ra, tuôn chảy. Êm ả.
Tuyệt vời. Khủng khiếp. Đêm cuối cùng của đời con gái, lần đầu tiên Mị Nương biết
đến nỗi kinh hoàng.

Tiếng trống đồng đột ngột dội vào nàng. Mị Nương thảng thốt mở mắt. Tùng...
Bili... Tùng... Bili... Tùng... Bầy thị nữ cuống quýt đỡ vai Mị Nương nâng nàng dậy.
Chải tóc. Thay xống áo. 'Hãy chọn cho ta cái váy thường thường. Đấy, em đưa cho ta
cái đó, cái ta hay mặc để đi cùng các em xuống bến ấy. Liệu có bao giờ...'
Bầy thị nữ xôn xao, hớn ha hớn hở. Mị Nương dừng nửa chừng câu. Ai biết vì sao
nàng chọn cho mình cái váy có phần xoàng xĩnh ấy. Đâu phải vì câu hát quyến vờn
nhau nơi bến nước. Ra sông gánh nước í i... lại nhớ tới người ... ì... Cứ mê mệt những
buổi chiều sông nước ấy thế thôi, song Mị Nương chẳng có người nào để nhớ. Nàng
biết phận mình. Nàng biết quyền mình. Người đã chẳng đoái nhìn nàng thì chiếc váy
xoàng này, mà ngay đến cả thân dáng này có là gì. Mà kẻ chỉ còn biết mỗi một nàng lúc
ấy thì nàng vận xống áo gì cũng có đâu có còn quan thiết nữa. Mị Nương bần thần ghé
mắt vào tấm gương đồng một thị nữ vừa đưa lên trước nàng. Màu đồng loé sáng. Một
tia nắng do dự quét ngang chân vách. Vị thần nào ngoài kia sẽ chờ đón nàng đi?
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Vua Hùng nghiêm nghị nhìn con, không để lộ vẻ hài lòng. Lệnh truyền và đoàn
quân sai tùy tùng của hai vị thần Núi thần Nước khệ nệ tiến vào. Tiếng Sơn Tinh sang
sảng. Quân lính của vua Hùng lúng túng tránh đường nhường bước. Vua Hùng bằng
lòng lắm, khẽ khẽ gật đầu:
- Đúng là thần là thánh. Voi chín ngà. Gà chín cựa. Ngựa chín hồng mao. Lại còn
hồng tâm tứ thiết. Lại còn sừng tê vẩy giác. Thật đáng mặt rể ta.
Một Lạc hầu bước tới, vòng tay:
- Thủy Tinh cũng đến cùng lúc với Sơn Tinh, tâu...

Sau này, bao nhiêu lần Mị Nương ân hận. Giá nàng cứ lui lại trong buồng, cứ ra vẻ
còn bận rộn tóc tai xống áo, giá nàng không ra sân chầu ngay, thì mọi sự sẽ công bằng
với Thủy Tinh hơn. Vị thần Nước dừng phắt lại lúc vừa thoáng bóng nàng. Và chàng
quên hết, quên đám tùy tùng đang lúng túng với bao nhiêu lễ vật mà kẻ ở nơi đất bằng
còn chưa một lần được nghe nói đến, nói gì mong có. Voi chín ngà. Gà chín cựa. Ngựa
chín hồng mao. Còn nữa: Những viên ngọc trai óng ánh chỉ nhìn vào đã thấy lòng dội
lên khát thèm được đến những miền chưa biết tới bao giờ. Còn nữa: Bọt sóng kết thành
muôn sắc cầu vồng, huyền ảo tỏa sáng những đêm không trăng không sao tái nhợt. Còn
nữa...

Chàng choáng váng thấy Mị Nương đột nhiên nhợt nhạt, trong mắt nàng hiện một
niềm thương không cùng, và cả nỗi hoang mang xót xa. Chỉ đến lúc đó chàng mới hiểu
điều vua Hùng vừa cho truyền giữa hai nhịp trống. Chàng thành kẻ bại. Chỉ vì chàng đã
đắm đuối trước người con gái trần gian, trước xương thịt ấy, trước dáng đi bay múa ấy,
trước vẻ đột nhiên e ấp, trước mùi hương nồng ấm hoàn toàn mới mẻ với chàng. Chàng
đã để qua đi cái phút mặt trời nhấc hẳn mình lên khỏi chân mây, không giục giã ngay
đám tùy tùng khênh lễ vật bước hẳn vào sân chầu ra mắt vua Hùng. Chao ôi! Chàng là
vị thần đầu tiên và có lẽ là duy nhất đã không qua nổi những đòi hỏi của người đời.
Chàng đã không hiểu người đời. Ma cũ quen rồi không đáng sợ bằng ma mới. Thần
quen rồi đáng tin hơn thần lạ. Chàng không biết...

...Cái điều mà Mị Nương biết rõ và không thể nói. Rằng cha nàng đã cau mặt khi
nghe lời bẩm của Lạc hầu. Lệnh đã truyền rồi: Sơn Tinh là kẻ thắng. Sơn Tinh là chồng
nàng, và buổi chiều nay thôi, nàng sẽ theo chồng về núi Tản.

*
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Phong Châu ngát sương, buổi chiều bặt dáng Mị Nương. Bước bước trập trùng. Mị
Nương giấu tiếng thở dài. Phận gái từ nay đã yên rồi, sao vẫn muốn ngập ngừng ngoái
lại. Sông dài mấp mé bờ đê, hình đuôi mắt ướt. Có chàng trai đã nhìn nàng mê đắm,
chiều nay bước oải đường về.

Đêm rừng núi Tản nuốt chửng mọi nỗi niềm. Mị Nương không kịp để ý một điều
gì: Tiếng con nai tác ngoài kia. Tiếng lá sột soạt ngoài kia. Giọt sương nặng trườn trên
lá. Nàng cũng chẳng kịp hiểu ra rằng nàng rất đói, nàng đã nhịn suốt chiều qua. Cơn
đau xuyên suốt nàng, như lửa, bỏng, rát, một khoảnh khắc ấy thôi, rồi tan, sóng sánh,
dập dềnh, tắt ngấm và lại bùng bùng cháy một cảm giác nàng chưa bao giờ biết tới.
Nàng ngỡ mình sắp nổ như quả pháo đất trẻ trâu vẫn nghịch chơi trên bãi, và nàng
muốn dù thế nào cũng nổ tung ra. Vị thần núi Tản, con hổ vồ mồi, chỉ biết đến phiến
thịt sống máu nóng đang rùng rùng chảy, giằng, rứt, cắn, và cũng hệt con hổ lúc đã mệt
vì no, chàng đặt tay lên bờ vai Mị Nương, ngủ lịm đi, thoả mãn và bình tĩnh.

Tiếng ngáy quyền uy của Sơn Tinh dội suốt đại ngàn. Mị Nương lẩy bẩy ngồi lên,
ào ra trời đất. Sương dày và lạnh úp lấy Mị Nương, không làm nàng dịu đi, chỉ khiến
cơn nóng thêm bứt rứt, cuồng điên quần trong thân thể đang bị căng ra, cần phải nổ
tung, tan biến hoặc chùng lại ngay lập tức. Mị Nương vẹt lá lần đi. Đằng kia vỗ về tiếng
suối. Suối thức, vật mình bên bờ cỏ ướt. Mị Nương buông người. Nước dềnh lên, siết
lấy đôi chân nàng, trườn vào giữa hai đùi non, sẽ sàng ngoạm lấy đôi bầu vú nhức.
Nước xoa lên hõm cổ nàng, dỗ dành tấm lưng con gái. Cơn nóng dịu dần. Mị Nương
rùng mình. Có cái gì râm ran lan tỏa trong nàng. Nàng khép chặt hai đùi. Nước. Vẫn
nước ghì ôm, dạt dào, sóng sánh. Mị Nương hớt hải lội vào bờ. Nước níu lấy nàng. Mị
Nương quỳ sấp. Trăng lặn về bên núi kia rồi. Con suối nhỏ thu mình lại trong bóng tối
vừa dâng kín đêm rừng, mơn man mấy ngón chân nàng. Mị Nương lả người. Có con hổ
dừng bước đằng kia. Có con rắn se sẽ trườn khỏi bờ suối. Đêm loãng ra và mặt trời lên.
Rừng rùng mình ra khỏi giấc ngủ đầy ma mị. Mị Nương bàng hoàng mở mắt. Phong
Châu đâu rồi? Em đâu rồi Sơn Tinh Thủy Tinh ơi?

Thế đấy. Những ngày và những đêm của Mị Nương. Chưa từng ai kể. Chưa từng ai
biết đến nỗi vời vợi của người gái nhỏ, từ đại ngàn xa ngóng lại bến quê xưa. Ngóng
những chiều rơi sẽ sàng trên cỏ ấm, ngóng những xôn xao tiếng người. Nỗi buồn nhớ
lạc loài của kẻ không thể nói với ai rằng mình không hạnh phúc. Con hươu nào động lá
ngoài kia, con trăn nào cuộn mình ào ào trên xác lá, tiếng mang tác lúc nửa đêm và
tiếng bầy khỉ lẹc khẹc ầm ĩ mỗi buổi sớm làm Mị Nương thêm da diết nhớ đất Phong
Châu. Nàng không biết sẽ sống ra sao, nếu không có những đêm rũ lả trong sức mạnh
Lê Minh Hà - Cổ Tích

uy quyền của Sơn Tinh, để rồi chỉ thấy mình sống lại cùng nước, trong nước. Bao lâu
rồi. Người gái quê xuôi đã quen với rừng già thăm thẳm, đã hiểu nông nỗi muôn loài
nơi rừng già. Mà vẫn như là kẻ lạ bên người chồng thần thánh. Nàng sợ cái nhìn của
Sơn Tinh, sợ bước chân như voi trong cơn điên giận, như báo lúc rình mồi, sợ niềm vui
thú đầy uy lực của chàng từng đêm rừng ẩm và nóng. Nỗi sợ không có cơ giải tỏa dần
như men rượu, làm nàng dường như say đến nỗi nếu thiếu đi thì nàng sẽ đâm lo lắng,
cũng lại từng lúc chạnh lòng. Nàng chỉ có thể buông thả, hồi tâm khi chiều chiều ra
suối. Voi lầm lì thu vòi lại rời con nước, hươu nai quay cái mõm ướt khi thoáng bóng
nàng, vội vội rời những vũng nắng sóng sánh bên bờ suối. Suối nhỏ ăm ắp thầm thì...
-Về với ta đi nàng ơi. Ta đưa nàng theo con nước ra sông xuôi về biển lớn. Nơi ấy
nhiều bí mật mà không u tối. Nơi ấy chim biển rập rờn sẽ không làm nàng thắt ruột như
tiếng chim rừng lúc hoàng hôn xuống. Nơi ấy ngày mở cửa hối mặt trời lên. Nơi ấy
nàng chưa biết bao giờ. Nơi ấy...
Thật chăng tiếng suối? Bao nhiêu lần Mị Nương thảng thốt lắng nghe và dõi theo
bóng những bầy thú hoang đi trong rừng già. Muôn loài có cùng nghe với nàng? Hay
chỉ riêng nàng hiểu tiếng thầm thì dịu dàng mà quyết liệt của nước đang dâng dần
ngang ngực.
- Làm vậy sao được Thủy Tinh ơi. Em phận gái theo chồng. Cha đã gả em về núi.
- Núi có choài ra biển cũng chỉ làm gập ghềnh được bước mặt trời qua. Nhưng còn
ta, ta lặng lẽ, ta có mặt ở mọi nơi, đất bằng, rừng, núi. Ta là biển, là sông, là suối. Ta là
cơn mưa rừng. Ta là giọt sương trên lá. Ta là mù trong cây. Ta là hơi đất ẩm. Cha em
chỉ dõi mắt được lên đại ngàn. Sao không quay nhìn xuôi về biển. Chuyện đã đành rồi.
Ta sẽ chẳng có mặt nơi đây nếu không biết nỗi lòng em buồn bã thế.

Những bầy thú hoang lang thang trong rừng. Chỉ có vị chúa tể đại ngàn đột ngột
dừng chân, giận đùng đùng nổi. Tiếng suối thầm thì ở một nơi rất xa vang vang trong
đôi tai thần thánh, xới tung mọi bức bối khuất lấp bấy lâu nay. Sơn Tinh biết từng đêm
từng đêm Mị Nương rời bếp lửa ra dìm mình giữa suối. Với Sơn Tinh, điều ấy không
phải là điều cần ngẫm nghĩ. Cái chính là nàng có mặt nơi này, cái chính là nàng biết
nghe lời cha, biết quy phục chồng. Cái chính là nàng làm cho đêm của chàng đầy sinh
lực. Chàng biết chàng không phải là kẻ thắng trong cuộc cầu hôn, nhưng quan trọng gì
điều đó, khi mà kẻ phải chinh phục là vua Hùng, là vua Hùng chứ không phải là Mị
Nương, nhúm thịt xương trần gian mà chàng đã hỏi và đã cưới được về. Hóa ra nhúm
thịt xương ấy vẫn cưu mang một nỗi niềm không có chàng trong đó. Hóa ra kẻ ấy lại sẻ
chia được với nàng. Trong một chớp mắt, Sơn Tinh đã sải bước về tới suối, túm ngang
người Mị Nương nhấc bổng nàng lên. Nắng hắt màu vàng sẫm qua những thân cây nâu
già, ròng ròng chảy trên da thịt nàng ướt át. Rừng đột ngột lặng tờ. Chim chóc nín hơi
trong lá. Thú cúi đầu lầm lì xoải gót. Sơn Tinh hất tung tóc vợ, siết lấy đôi vai mảnh dẻ
mà cứng cáp, bóp, nghiến đôi bầu vú gái xoan nây nẩy, vừa rắn vừa mềm như đất sét
chưa nung, áp bờ ngực tràn trề nhựa sống vào tấm lưng xuôi xuôi ướt đẫm, áp, sát, sát,
sát rồi, mà bụng vẫn cồn cào nóng bỏng một cảm giác rỗng rễnh giữa thịt da ấy và thịt
da mình. Mị Nương đập ngực vào cái sẹo lồi gồ ghề của một thân cây già, chỉ kịp thấy
Lê Minh Hà - Cổ Tích

mặt trời lừ lừ đỏ. Người nàng rung nẩy, chao như sóng. Nàng chới với víu lấy lớp vỏ
cây xù xì, ngực đau dội lên vì những thúc, huých... phía sau... phía trước... phía sau...
Cái mấu cây đâm vào nàng, đỡ nàng, không cho nàng khuỵu xuống. Cảm giác ấy bùng
lên. Chất ngất. Lần đầu tiên. Như gió nóng ruổi đợt đợt trên mái ngàn. Không giống
một chút nào cảm giác dịu dàng mà nàng có đêm đêm trong lòng suối nhỏ. Rừng bắt
lửa. Thú hoang nín tiếng chạy ào ào. Chim chóc chấp chới đập cánh phần phật. Lần đầu
tiên Mị Nương biết thế nào là cơn giận thánh thần của Sơn Tinh. Nàng đột ngột hiểu ra
vì sao vua cha chăm chăm gả nàng về núi. Một cảm giác nhẹ nhõm tràn ngập lòng
nàng. Nàng biết rồi. Nàng không sợ nữa. Nàng đã biết rằng có thể toài ra khỏi bóng
thiêng của Sơn Tinh, thôi không lẩy bẩy dưới cái nhìn bình thản đĩnh đạc của chàng.
Một cái gì giống như là yêu thương và biết ơn kẻ đang cuồng nộ đốt cháy chính mình
len lỏi nhóm giữa lòng nàng. Mị Nương ngoảnh cổ nhìn Sơn Tinh đang đờ dại sau vai
mình và đắc thắng chuyển cái nhìn sang cánh rừng phừng phực lửa, không để ý dòng
suối nhỏ ngay sát chân nàng phút chốc cạn kiệt.

Đấy chính là lúc bắt đầu cuộc chiến giữa hai vị thần Núi và Nước.

Con suối nhỏ êm đềm vừa khô kiệt lại đột ngột phồng lên, vặn mình tự chẻ thành
trăm ngàn nhánh như lưỡi quỷ, lừ lừ thè ra, liếm vẹt tất cả. Nước dâng từ đáy sâu tăm
tối. Nước đổ sầm sập từ trời. Nhung nhúc thủy quái nương theo nước ào về, giật trốc
gốc cây, dìm chết chim thú. Chim thú cuồng lên vì hoảng loạn. Sơn Tinh quơ tay, quấn
chặt mái tóc Mị Nương, đỡ ngang hông nàng, bật mình vươn tới. Hu...u...u....u...
hú...hu...u... Rừng gầm rú đáp lời vị chúa tể đại ngàn. Cây bật gốc quật mình xuống
nước. Đá ầm ầm tự lở. Thú dữ vững tâm tụ lại bên gót Sơn Tinh, cùng nhe nanh múa
vuốt lao xuống, chìm nghỉm, sặc sụa giữa những thân cây quay đảo vô phương giữa bùn
và nước. Núi vọt lên. Nước đổ từ trời, nước phì từ đất, lì lợm, cuồng loạn. Rừng mịt
mùng, chảy nhão. Mị Nương nhợt nhạt, thầm thào:
- Về đi Thủy Tinh ơi. Ngày xưa chàng đã để em bình yên về núi Tản. Sao nay...
Hãy lại là suối nhỏ, hãy theo sông về biển lớn của chàng. Chàng hãy nhìn xem. Trương
phềnh. Rữa nát. Thối khẳm. Những xác thân muôn loài. Em không còn tin vào chàng
nữa. Chàng sẽ yêu em thế nào trong cảnh tan hoang.

Ôi những đôi tai thần thánh. Sơn Tinh Thủy Tinh cùng lúc lồng lên. Sơn Tinh
xuống tay: đá lở. Sơn Tinh vươn tay: cây giật gió rung đuổi cơn mưa đen tán loạn bay.
Thủy Tinh gầm:
- Ta cũng chẳng tin nàng. Nàng đâu có khổ sở như ta tưởng. Ta đau buồn trở về
giấu mình nơi biển tối không theo giành giật nàng với kẻ kia chỉ bởi ta đã yêu nàng, và
đã tưởng rằng... Đêm đêm... ta đã tưởng rằng... Không phải vậy. Nàng với kẻ kia tuy hai
Lê Minh Hà - Cổ Tích

mà một. Tan hoang ư? Ta muốn tan hoang... Dù các ngươi ở đâu, từ nay cũng sẽ không
thể lờ ta.
Dòng nước đen nghẹt bởi bao nhiêu thân xác thủy tộc, thú, chim, cây lá. Núi và
nước gầm ghè. Mị Nương vùng vẫy trong cánh tay thừng chão của Sơn Tinh:
- Thôi cũng đành lòng vậy. Bao nhiêu sinh linh đã chết thảm rồi. Bến xưa giờ chắc
lở rồi! Người quê chắc chết cả rồi! Còn cách nào cho ta về quỳ lại bên gối phụ vương
ta! Cứ giết nhau đi, ta cũng chẳng cầu sống nữa.

Nàng rũ xuống. Sơn Tinh Thủy Tinh cùng lúc đột ngột rùng mình. Rừng vội vã im
lìm trở lại. Trăm con suối cuống cuồng thu mình. Non nước lại giống non nước muôn
đời, nếu không cảnh tan hoang bày trước mắt. Cả hai vị thần đều hiểu ra rằng nước non
sẽ chẳng còn là gì cả, ta, ngươi, nước non, sẽ chẳng thể là non nước nữa nếu mất đi
nhúm thịt xương trần gian huyền nhiệm hôi hổi ấm kia.

Cứ thế, tự muôn đời muôn kiếp, nàng gái Phong Châu đi giữa những tấm lòng thần
thánh. Nàng biết nàng được Sơn Tinh Thủy Tinh yêu, phải, nàng đã qua bao lần để có
thể tin vào điều ấy. Nàng cũng biết nàng sẽ không sống được chỉ với một Sơn Tinh hay
một Thủy Tinh. Không có những đam mê lửa cháy của Sơn Tinh, những cẩn trọng dịu
dàng của nước có lẽ nàng cũng không khát khao nhiều đến thế. Mà nếu không biết rằng
Thủy Tinh lúc nào cũng đắm đuối bên nàng, vỗ về an ủi thịt da nàng, thiết tha trìu mến
vậy, Mị Nương chắc cũng chẳng kham nổi những thôi thúc hừng hực của Sơn Tinh,
chắc sẽ rộc rạc đi mà chết. Tình yêu thần thánh làm nàng tự tin sống. Những ngày
những đêm rừng suối. Cả hai vị thần đều biết điều ấy, đều tự nhủ lòng yên tâm với
những khoảnh khắc có riêng nàng. Nhưng thỉnh thoảng những cơn cuồng điên lại bùng
ra, bởi hai vị thần không thể nào chịu nổi cảm giác vĩnh viễn không thể đạt tới cõi giới
khốn khổ và huyền diệu của con người sống bên cạnh họ, thuộc về họ, yếu đuối hơn họ,
mà đầy sức chế ngự đam mê. Nếu Thủy Tinh Sơn Tinh biết rằng đấy cũng là nông nỗi
của Mị Nương! Thì liệu còn có đất sụt đá lăn? Thì liệu còn bão nguồn mưa bể? Biết
mình bị yêu đến thế, Mị Nương chợt hiểu mình đã nên người. 'Kiếp sau xin vẫn làm
người.' Mị Nương buông mái tóc dài, ngón tay buồn buồn quấn thả: 'Làm người. Đã
đành kiếp này kiếp nữa... Liệu có được về ... ừ... bờ bãi ấy... Phong Châu.'

9. 2002 - 10.2002
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Gióng

Không ai cúng thờ niềm thương nhớ ấy


ĐQN - 2004

Gióng à Gióng ơi - Gióng vừa lên ba - Gióng đi ra trận - Ngựa sắt gậy sắt - Lửa
tuôn từ trời - Lửa phụt từ đất - Giặc giã tan rồi - Gióng bay về trời - Gióng ơi Gióng à
- Sao Gióng không về nhà - Mẹ chờ cuối vườn - Mẹ chờ sau cửa - Mẹ mong Gióng lại
bé nhỏ - Cho mẹ bế mẹ ẵm - Cho mẹ dỗ mẹ mắng - Mẹ nuôi Gióng lớn lên - Mẹ dạy
Gióng sống cùng bình yên - Mẹ dạy Gióng làm người lớn - Gióng à Gióng ơi - Sao
Gióng bay về trời - Gióng ở đâu rồi - Gióng ơi Gióng à...

'Đêm qua cháu nó lại về bác ạ!'


'Vậy như? Thánh dạy điều gì hở dì?'
'Cháu nó vẫn bé như xưa, như cái hồi chưa ra giúp nước. Nó vẫn chả biết nói gì.
Em thương cháu quá.'
'Chết! Dì đừng dại miệng. Còn chòm xóm xung quanh. Con dì là thánh là thần giời
sai xuống đầu thai cửa nhà dì để giúp dân. Lại sắp đến hội rồi... Dì có đi dâng hương
cửa thánh hôm này?'

Mẹ nuốt nghẹn dồn ngang ngực


'Người ta xì xào thế ư? Nhưng em không đi được. Bác ạ, em chẳng thể nào đi
được. Dâng hương cho cháu? Không! Làm vậy em ngỡ như là cháu chết mất rồi. Nó
phải bỏ em đi. Nhưng nó còn sống phải không bác. Tội nghiệp! Nó mới lên ba.'
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Gióng à Gióng ơi - Gióng dậy đi thôi - Nắng đã xế rồi - Mẹ làm đồng về rồi - Mẹ
nấu niêu cơm bé bé - Mẹ múc muôi tương bé bé - Gióng nhìn ra cửa mà xem - Chim
đang mổ chuối chín cây - Kiến đang tập trèo măng nhỏ - Gióng ăn bát nữa - Lớn lên
nuôi mẹ Gióng ơi...

Sẽ không bao giờ cu Gióng được nghe ru dín như thế nữa. Nắng mang màu của
lửa. Tin giặc giã từ trên nguồn đổ xuống, từ cửa sông dội lên. Cầu ao trưa trưa mẹ ra
giặt giũ, lo nghĩ không thành lời. Đã khổ mãi rồi. Mẹ góa con côi còn không cực thế
này. Mẹ góa con côi còn làng còn họ đưa tay gánh đỡ lúc phải buổi gieo neo. Còn
Gióng, thằng bé lên ba không biết mặt cha, chẳng thể nào biết mặt cha. Mẹ nó cũng còn
không biết. Giọt nước hớp đỡ cơn khát buổi trưa nào là nguồn cơn bao nhiêu nông nỗi
khổ ải của người đàn bà mỏng nhan sắc, lại mắc tội nghèo, nên dẫu đang thì vẫn cảnh
thuyền không lái. Thằng bé không bố ra đời, bao nhiêu là tủi hổ giữa xóm giềng, nhưng
cũng là bao nhiêu sung sướng. Đêm đêm mẹ con ôm nhau, chiếu rách thì nằm chiếu
lành thì đắp. Con thọc tay vào yếm mẹ. Con thục đôi chân bé bỏng đầy và ấm như cái
bánh gù vào bọc mẹ. Con không biết nói. Nhưng mắt con biết cười. Trời đất có nắng có
mưa. Nhưng mẹ bước vào nhà là mắt con cười. Con như mặt trời, hai cánh tay bé nhỏ
vươn về mẹ.

Tin giặc giã dồn về như lũ đuổi. Mẹ bồn chồn ôm con vào lòng, rồi lại bồn chồn
thu vén nồi niêu, áo rách áo lành, dồn vào thúng. Đời người cần bao nhiêu thứ. Nhưng
nỗi nhà mẹ còn son mà con còn đỏ, chẳng có gì. Một gánh trên vai, con sẽ một đầu
quang, đầu quang kia sẽ là nồi niêu áo quần gạo muối. Khi nào làng nước chạy thì hai
mẹ con cũng chạy. Đất ở lại. Nước thì nơi nào cũng có. Giặc tan mình lại về. Mẹ đã
định liệu cả rồi. Mẹ không biết rằng cái thúng mẹ dành cho con quá chật.

Buổi chiều ấy ngựa quan quân ruổi tới làng. Lệnh vua truyền vang. Giặc tiến như
lũ. Giặc ác hơn quỷ. Ai có lòng thì ra. Ai có sức thì ra. Nước non sắp mất vào tay giặc.
Ai có lòng? Ai có sức?
Mẹ cũng theo làng nước chạy ra. Rồi mẹ lặng lẽ quay vào. Sân nắng. Con gà mái
nằm trong hũm đất bên gốc chuối vùng dậy te tái chạy. Hai đầu gối mẹ tự dưng mỏi dừ.
Đã đến lúc phải cất gánh lên vai chạy giặc rồi.
Mẹ đứng sững trước cửa. Mẹ không tin vào tai mình. Mẹ bước thêm mấy bước tới
cái giường tre con vẫn bò toài, rướn mắt nhìn vào bóng sẫm trong cái chái nghèo mẹ
con hui hút:
'Cu Gióng nói đấy ư? Con nói đấy ư? Con nói gì thế con? Con nhắc lại đi con!'
'Mẹ ra mời quan quân vào đây cho con!'
Lê Minh Hà - Cổ Tích

'Con có chuyện gì mà nói với quan quân? Đang lúc nước sôi lửa bỏng thế này.'
'Mẹ cứ ra mời quan quân vào đây cho con! Đi mẹ!'

Cái lúc bị quan gặng rồi sau đó nổi cáu vì lời khẩn nài của mình, mẹ cũng còn chưa
hãi lắm. Cái lúc xóm giềng xôn xao xúm xít kể cho quan nghe về thằng bé lên ba chưa
biết nói biết cười và mặt quan phút chốc đỏ như vang, mẹ cũng còn chưa hãi lắm. Mẹ
chỉ rụng rời chân tay khi mở cánh cổng rào tre xộc xệch cho quan bước vào sân: từ
trong chái nhà của mẹ, một chàng trai bước ra. Vai chàng trai ngang như đống bãi cuối
làng. Ngực chàng trai nổi vồng lên như núi phía chân trời. Giọng chàng trai rền như
sấm. Gióng, đấy là Gióng. Thằng bé lên ba không biết rằng nó đã làm mẹ bàng hoàng
như thế nào. Người đàn bà trẻ suốt đời cúi mặt vì bao nhiêu nông nỗi khổ ải chưa bao
giờ thấy một dáng đàn ông đẹp đến thế, khoẻ đến thế. Và người mẹ đau đớn, bởi khi
biết nói đứa con đã không tìm ra lời với mẹ. Lúc bấy giờ giặc giã... Lúc bấy giờ nước
non... Những ngày chờ ngựa sắt gậy sắt nón sắt, Gióng phải lo ăn cho đã lớn càng thêm
lớn, đã mạnh càng thêm mạnh. Thúng cơm thúng cà thúng cơm thúng cà. Mẹ ngồi xới
cơm cho con, tự hào quá buồn tủi quá mà không dám khóc. Xóm làng kìn kìn đi qua cái
cổng nẹp rào tre xộc xệch, ngày đêm phục dịch chàng trai dồn sức đi đánh giặc. Xung
quanh hai mẹ con, lúc rì rầm lúc xôn xao toàn những lời thán phục, ngưỡng mộ, biết ơn.
Không ai biết, Gióng cũng không biết, lòng mẹ rối bời thế nào. Thưong con phải lớn
trước tuổi. Thương con vốn dại, tự nhiên lớn vù vù nhưng làm sao một sớm một chiều
hết dại. Thương con đơn thân lo việc nước non, chỉ mới biết lấy sức ra mà rẫy. Thương
con, đường làng này, ngõ xóm này, chân núi phía xa, mẹ cặm cụi cả ngày chẳng mấy
khi bế con ra ngõ cho con thấy. Mà thương nhất, khi con nhảy lên lưng ngựa sắt, con
chỉ biết tìm mắt mẹ, cười với mẹ. Con, đứa con ngoan dại, lúc cất bước lên đường
không có lấy một lời dặn dò khắc khoải của một người cha. Con, chàng trai oai hùng
đến thế, ngày ra trận không có lấy một bóng gái làng bíu dậu cúc tần bối rối để quay
nhìn. Không một ai ở đất nước này kịp nhớ rằng chàng trai sẽ đương gánh nặng sơn hà
buổi tao loạn ấy mới chỉ lên ba tuổi. Không một ai ở đất nước này kịp ngỡ ngàng tự hỏi
đâu hết rồi, buổi ấy, những người đàn ông khoẻ mạnh và khôn ngoan, những người đàn
ông đáng tuổi làm bố nó. Không một ai ở đất nước này muốn biết rằng thuở xa xưa có
một người mẹ trẻ bình thản nhìn con đi, lòng bỏng rát. Sao nó phải ra đi? Nó mới chỉ
lên ba! Nó đã biết gì đâu? Đi cứu nước mà chỉ biết làm cái việc dễ nhất là cậy sức.

Gióng ơi Gióng à - Gióng chưa chơi trận giả - Gióng đi đánh giặc rồi - Tre đằng
ngà còn ám - Lửa chiến chinh một thời - Gióng à Gióng ơi - Mẹ giồng bụi chuối - Mẹ
đánh đống rơm - Mẹ ủ lửa thổi cơm - Ngàn năm rồi đợi Gióng - Gióng ơi Gióng à -
Guốc võng mẹ rên bên chái nhà - Con mọt nghiến mòn ý nghĩ - Trời cũng xa mà đất
cũng xa - Mẹ sống lưng lưng cuộc đời - Gióng ở đâu rồi - Gióng à Gióng ơi.
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Nước non thanh bình. Nhưng tan hoang. Giặc tàn phá xóm làng. Gióng ra trận,
ngựa sắt thở ra lửa cũng đốt cháy mất ít nhiều. Giặc giã tan rồi, ngựa sắt đưa Gióng trở
về làng. Đường làng ngõ xóm vắng hoe, nhưng sau mỗi bờ dậu đều ngấp nghé bao
nhiêu là mắt. Mẹ ào ra rồi sựng lại. Mẹ nhìn quanh. Mẹ bắt gặp bao con mắt chen chúc
sau cây lá. Những đôi mắt mừng rỡ. Những đôi mắt hoảng sợ. Mẹ nhìn con trai mẹ: cái
nhìn từng trải trên gương mặt mẹ tưởng như vẫn còn nét phúng phính ngày nào. Mẹ
nhớ. Năm trước thôi, con mẹ cất tiếng, lần đầu tiên trong đời, tiếng xin đi đánh giặc.
Làng xóm rộn rực chen chúc đi qua cánh cổng rào xiêu vẹo, gồng gánh cơm nước cho
người con trai thần thánh trước buổi xuất chinh. Thúng cơm thúng cà thúng cơm thúng
cà. Mẹ sững sờ. Con trai mẹ đi đánh giặc về rồi, vẫn vóc dáng buổi ra đi năm trước, vẫn
nụ cười hiền chỉ dành cho mẹ, nhưng mặt sạm khói và mắt nhìn mệt mỏi. Làng xóm
đâu rồi. Đâu hết cả rồi. Gốc rơm. Bờ tre. Chân rào. Hàng dậu. Chỉ những mắt nhìn ngấp
nghé.

Huyền thoại đã không kể hết. Rằng Gióng vô cùng bối rối. Gióng buồn bã nhìn mẹ.
Mẹ vỗ vào lưng ngựa sắt, nghẹn giọng giục con đi. Lại đi. Chái nhà chật của mẹ không
đủ cao cho Gióng cúi mái đầu trai trẻ bước vào. Những con đường làng cũng chật, rào
dậu kẹp kín không đủ rộng đủ dài cho Gióng ruổi ngựa. Gióng nhìn về phía xa. Núi xiết
một đường xám gẫy gập từng đoạn vào chân trời bừng bừng ráng đỏ. Ngựa sắt rùng
mình, bổng vó, bay về phía quả hoàng hôn lửa, mang theo chàng trai ba tuổi mới chỉ
biết cuộc đời qua những ngày bé thơ bình yên u mê và những ngày tao loạn sôi sục
niềm tin tất thắng.

Những vết chân ngựa sắt để lại trên mặt đất trước khi bay vào mây đong nước của
đất và trời, thành rất nhiều ao con trên quê hương Gióng. Người mẹ trẻ ngày ngày ra
đồng đều phải đi ngang đó. Lần nào mẹ cũng ghé nhìn. Mây ngàn năm vẫn trắng ơ hờ
bay qua bóng nước. Trong mây ngựa sắt có còn bay? Mẹ tự hỏi và nhớ Gióng của mẹ.
Mẹ nhớ, lúc cúi mặt cắm dảnh mạ xuống bùn. Mẹ nhớ, lúc sẽ sẽ lùa bày tay xuống chân
bèo đỡ một con ốc cụ. Mẹ nhớ, lúc quấn rơm đốt niêu cơm nhỏ và nhân thể vùi vào gio
nóng một củ khoai như ngày còn có Gióng. Mẹ mỉm cười, thương Gióng đem thân đi
cứu đất nước này mà chưa có một ngày được sống cùng đất nước và cũng chả biết gì về
đất nước. Mùa nối mùa, mẹ nhìn mây bay trong con mắt của đất, nhớ đứa con mãi mãi
lên ba, không biết tóc mình đã trắng và dáng mình đi đã thấp xuống tự bao giờ.

'Dì hôm nay không ra đồng hả dì? Trưa lắm rồi, dì không đặt bếp đi?'
'Sao mà cái lưng em nó mỏi quá bác ạ. Miệng mồm nhạt thếch, chả thiết ăn uống
gì.'
'Không thiết cũng phải ăn dì ạ. Xuân muộn, giời đất lúc rét lúc oi, dễ ốm lắm. Để
tôi xem... Giời ạ. Dì luộc khoai làm gì mà lắm thế này. Ra mấy hôm rày dì chỉ ăn độc
Lê Minh Hà - Cổ Tích

có khoai. Thôi để tôi nhân thể thổi cho dì. Chốc nữa tôi bảo cái Gái nó mang sang. Mới
lại kiếm nắm lá cúc tần sao lên cho dì ủ cái lưng. Có khoẻ khoẻ lên mai làng còn đến lễ
dì rồi ra hội chứ.'
'Em không đi đâu bác ạ. Vào chỗ hội hè hương khói, em cứ ngỡ cả làng cùng có
giỗ. Giỗ cháu giỗ em. Cháu nó có chết đâu hả bác. Là chính em bảo cháu đi. Về chào
mẹ mấy lại chào làng xóm thế là được rồi. Nó phải đi bác ạ. ở lại quê nhà, chẳng ra lớn
chẳng ra bé, chẳng ra dại chẳng ra khôn. Giặc giã tan rồi, ai cần nó nữa ngoài em hả
bác!

Người mẹ không muốn kể, rằng trong giấc mơ đêm qua lại thấy Thánh Gióng.
Thánh nhìn mẹ, mếu. Vẫn hệt thằng cu Gióng ngày xưa. Vẫn không nói. Nhưng mắt
chú bé không còn tươi như nắng trời. Mắt Gióng đầy nước, như mắt làng - những cái ao
con - những vết chân ngựa sắt - sau một đêm mưa. Mẹ chốc chốc lại cựa mình, cố dỗ
giấc ngủ để có thể thấy lại con, dù mẹ con chả nói được một câu gì. Lòng mẹ đau thắt:
đứa con kì vĩ của mẹ không có nổi một chỗ đứng chân trên nước non này. Trong lúc
nửa tỉnh nửa thức, mẹ không một lần nhớ ra con mình là thánh.

'Hôm qua con ăn mấy bát cơm?'


Im lặng.
'Vắng mẹ trẻ mỏ chúng nó có chòng con không Gióng?'
Im lặng.
'Thế cu biết làm gì rồi chỉ cho mẹ xem nào?'
Im lặng.
Đứa bé mếu, nhìn mẹ, tức tưởi vì nỗi không nói được. Ngày xưa nó cười. Mẹ toát
mồ hôi, giật mình, tỉnh hẳn. Tiếng gió khô khô ngoài sân. Ngày xưa, giờ này mẹ sẽ vỗ
vỗ mông con, chèn cái yếm cũ vào lưng cho con ngủ say lại rồi mẹ lựa lựa ngồi dậy ra
thổi lửa lo cơm nước. Giời mưa con ngồi chơi một mình trên giường chờ mẹ, đôi khi
đái sũng sĩnh khiến cái chiếu cũ thâm sì, khai sực. Giời nóng con lần ra bậu cửa, ngồi
như chó tiền rưỡi hóng mẹ, cười chảy dãi nghịch con cua mẹ buộc cẳng cho chơi. Phải
buổi đổi giời mát mẻ gặp phiên chợ, mẹ một tay vịn đòn gánh, một tay dắt con lũn chũn
lần bước xuống bến lên đò. Bây giờ con ở đâu? Người mẹ nhớ con, tự hào, chua xót.
Giọt máu của mẹ đã cứu giữ nước non này. Năm lại năm, hội Gióng càng ngày càng
quấn chân khách thập phương, xóm làng nô nức lắm. Nhưng chả mấy ai còn nhớ người
được dâng hương chính là chú bé của mẹ. Mẹ thở dài. Thương giọt máu mình không
biết giờ còn phiêu bạt trên đầu ngọn gió nào. Sống với người trần thì con vóc dạc kì vĩ
thế thành quá khổ. Nhưng ở với người trời e con vẫn bị coi là đứa trẻ. Con chưa biết gì,
mẹ chưa kịp dạy con gì, ngoài thương yêu.
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Gióng à Gióng ơi - Trời cao là ở đâu nào - Đất sâu là ở đâu nào - Biết chưa - Mẹ
dừng bên mắt làng xưa - Lặng thinh tìm bóng mây hờ hững bay - Ai - Nuôi Gióng lớn
từng ngày - Ai- Chăm mẹ tháng năm này héo hon- Bao giờ Gióng lớn Gióng khôn -
Gióng về với mẹ- Một lần Gióng nhé - Gióng à Gióng ơi- Mẹ nay mắt đã bạc rồi- Tóc
trắng thì gửi lưng trời- Bóng đi gửi đất - Gióng ơi Gióng à...

7.3.2004
Lê Minh Hà
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Kính Tâm

Cảnh 1: Xuân muộn. Mưa phùn lây phây rơi trong hoàng hôn. Cây gạo đầu làng lặng
lẽ chìa vào trời xuân những gộc những cành còn vương hoa, sẫm dần lại trong bóng tối
đang kéo dần lên từ phía cánh đồng sát chân núi. Ngôi chùa chon von đầu làng.
Một người đàn bà lúi húi trước cửa tam quan…

Kính Tâm giật mình, cái chày vẫn để tựa một bên đầu gối bị lật, đổ xuống nền đất. Đất
hút ngay đi tiếng chày rơi mệt mỏi. Mùi rau răm giã dập cay sực. Muỗi kéo về kêu vo
vo.
Tiếng đàn bà gọi từ ngoài cửa chùa kéo tiểu trở lại với công việc ngày thường. Tiểu lật
đật đứng dậy, bước vội khỏi gian bếp nhỏ. Bắp chân tê suýt nữa làm tiểu đá đổ cối rau
răm đang giã dở. Người đàn bà bước gần lại.Trong bóng chiều sẫm, mùi sữa hoi hoi,
mùi khăn áo ẩm. Tiểu tưởng mình đang trôi lạc lại với mình.
„Nhà chùa làm gì mà tôi dắng tiếng mãi không thấy ra. Mùi răm thơm qúa. Nhà
chùa…“
Người đàn bà buông lửng giữa câu, rồi nhẹ giọng:
„Giời mưa lại. Tôi dặn thằng bòi trông em…. Hôm qua thằng bé ấm đầu, e nhà chùa bế
đi lúc mưa gió thế này nó mệt thêm. Nhà chùa mang nó ra tôi cho nó bú.“
Tiểu luống cuống cảm ơn, luống cuống nhào vào xó thu xếp cối rau răm rồi lại quay về
chõng vạch màn bế đứa bé đang ngủ. Cánh tay tiểu khua phải cái sào treo khăn áo,
muỗi òa ra. Tiểu bất chợt rùng mình. Bao buổi chiều như buổi chiều này, tiểu đã một
mình nghe tiếng muỗi, và bây giờ là tiếng trẻ. Tiếng trẻ yếu ớt vọng lên từ đống khăn
áo ủ mình, trên nền tiếng muỗi vo vo trong chiều nhập nhoạng làm tiểu nóng gan nóng
ruột thêm lên.

Đứa trẻ này tiểu nhặt được mấy tuần, sau rằm. Trăng hạ tuần soi chõng nhỏ, tiểu Kính
trằn trọc tưởng mình vừa thiếp đi mê ngủ khi nghe tiếng trẻ oe oé ngoài tam quan. Đứa
bé đã qua kì tóp nước nhưng còn chưa sang kì xổ sữa ai đặt nằm trong rổ sảo, chèn chặt
bởi mấy tấm yếm áo sạch sẽ, nhìn đã biết của nhà có. Đằng xa kia, dáng người bước
giật lùi, bóng váy chùng hai tay đánh đường xa ngược chiều ngượng ngượng. Chao ôi!
Sao đời mình cơ khổ. Có lẽ nào em đổ vạ cho tôi! Màu ơi! thương nhau như thế…
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Người đàn bà ôm đứa bé, ghé ngồi xuống chân mễ, vạch yếm. Tiểu tránh đôi mắt
người đàn bà, quay mặt, cúi người thổi lửa. Trong bóng lửa vừa bùng, bất chợt mắt tiểu
chạm đôi bầu vú căng sữa. Đứa trẻ rúc đầu vào một bên ngực người đàn bà, bàn tay nhỏ
mân mê bầu vú kia. Tiểu biết, bầu vú ấy căng, đầu ti nở, mạch máu xanh xanh như
những đường gân trên một chiếc lá đang thì. Sẽ chẳng bao giờ mình có được cảm giác
khi đứa bé nút sữa đều đều thế kia. Đau đau chăng? Buồn buồn chăng? Giống gì chăng
cảm giác đôi môi tham lam của người đàn ông ngoạm vào, mút chặt trong cơn ham hố?

Cảnh 2: Hoàng hôn. Trẻ chạy à à trong bóng tối nhập nhoạng ùa ra từ những đống
rơm, bờ tường, chái bếp, dậu cúc tần. Anh mõ đã khuất bóng ngõ trên. Lũ trẻ còn cười
hí hố gào ngõ dưới. „ Chiềng làng chiềng chạ - Ngả vạ ăn khao“…

Tiểu Kính nằm rũ trước sân đình. Đầu gục sát mép cái rổ sảo trong đặt đứa bé tiểu mới
nhặt được. Ông lý cựu gật gù khuyên bảo cái chén rượu chưa một lúc nào rời tay. Ông
lý đương đập cái quạt xuống đùi: „Thêm ba mươi hèo. Không chết thì chừa. Không
chừa thì chết. Nó là thằng ba vạ từ đâu dạt về làng mà giờ dám làm bẩn tưởi cửa chùa
hại cả làng này á…“

Tiểu Kính không còn sức kêu oan. Máu mồ hôi túa sũng. Cái đầu trọc da trắng xanh vùi
vào rơm rác. Đứa trẻ hụt hơi khát sữa. Tiểu không dám nhìn. Mé sân đình kia, Thị Màu
run rẩy. Da thịt sau khi sinh nở của người đàn bà trẻ sáng bừng. Tiểu tưởng chừng thấy
hai vệt sẫm nơi chiếc yếm Màu đang mặc. Mắt Màu dại đi khi hết hèo nọ tới hèo kia
quật xuống tấm thân tiểu Kính.
Mắt tiểu cũng dại rồi. Loáng qua trí tiểu thân dáng đàn bà của chính mình ngày xưa,
chưa nảy nở như Màu vì chưa qua sinh nở. Nhưng mà cũng đủ phồng và mẩy. Giờ đây
tóp. Giờ đây lép. Hết rồi. Loáng qua trí tiểu những chiều quét sân chùa, luống cuống
tránh bàn tay Thị Màu níu áo. „Thầy tiểu ơi! Thầy như táo rụng sân đình… Em như gái
dở đi rình của chua này ớ thầy tiểu ơi…“ Tiếng Màu cười khanh khách. Giọng Màu
thúc bách. Man dại. Đam mê. Hoa tầm xuân thơm gần gần xa xa đâu ấy nhỉ… Mùi
hương năm tháng cũ càng… Nàng từ chái bếp bối rối nhìn ra. Thiện Sĩ khăn áo xênh
xang đi trong đám hỏi… Dáng cha già nghiêng gió thổi… Ngày nàng bị nhà chồng
đuổi… Màu ơi!
Tiểu lịm dần. Không biết anh Nô cúi vực mình dậy, cõng về chùa. Không biết đôi mắt
lá răm lóng lánh. Những giọt nước mắt mừng rỡ vì xong tội. Những giọt nước mắt ăn
năn. Sư bà cắp cái rổ sảo đựng đứa bé hoi hóp vì khát sữa theo sau vệt máu rỏ từ thân
tiểu, lắp bắp mãi hai chữ duyên nghiệp. Ngoài đình, trai đinh ăn uống bốc bải, hầm hừ
chửi tiểu, chửi con nặc nô chửa buộm Thị Màu, chửi cái đời giai nghèo không dám với
con gái nhà có của.

Cảnh 3: Tiểu Kính dáng gầy guộc chống vồ đứng thẫn thờ. Cánh đồng sau vụ mùa
hoang vắng, lô nhô gốc rạ xám xám trắng trắng. Đầu bờ, một thằng bé con con tha
Lê Minh Hà - Cổ Tích

thẩn đuổi bắt mấy con châu chấu ma. Sương bốc từ mặt đất hòa với sắc sáng của vầng
mặt trời đang hụp xuống chân núi xa thành một màu hồng tím héo úa.

Tiểu Kính cắm cúi đập đất, cảm giác lồng ngực bị ép lại sau mỗi động tác giơ vồ.
Thằng bé con con bắt đầu nhèo nhẹo: „ Cha ơi, con đói“.
Cứ mỗi lần nghe tiếng đứa bé gọi cha, tiểu lại giật mình, lòng dạ nhàu nát tựa tơ dứt
mãi không ra khỏi kén. Chao ôi, ai hay được bao đêm sau lần bị làng phạt vạ, sống dậy
rồi, ngoi ngóp đi lại được rồi tiểu đã nghĩ gì. Việc đầu tiên tiểu làm là xin gặp sư bà, xin
sư bà xá tội đã làm nhơ cửa chùa. Sư bà thong thả: „ Mô Phật. Cửa chùa là nhà của Phật
độ người bước lạc, độ người không nơi nương náu, đâu có phải nhà của thế nhân. Ta
làm sao nói được cái câu thất đức đuổi con với đứa bé này đi. Làng đã phạt vạ rồi.
Được trừng phạt vậy là coi như đã dứt được một phần nợ đời rồi. Con cứ ở lại đây. Dốc
lòng mà nuôi thằng bé. Có điều con không thể sống đời thế nhân ngay dưới mái chùa…
Xó vườn kia, dựng cái lều là đủ cho hai mẹ con chui rúc…“
Tiểu Kính bàng hoàng. Sư bà nói „hai mẹ con“. Nhưng giọng nói nét mặt an nhiên
chẳng có vẻ gì nói nhịu. Im lặng. Trong bóng chiều nhập nhoạng dâng dầy nhà trai, tiểu
thấy mình đang ở cuối một con đường le lói sáng. Từ buổi ấy, tiểu và đứa bé lủi thủi
vào ra nơi xó vườn. Tiểu không phải bỏ tấm áo nâu sồng, vẫn cạo trọc đầu, vẫn lụi hụi
quét sân chùa mỗi ngày. Thằng bé quẩn quanh nhặt hoa đại rụng, rằm mồng một lễ mễ
bê về lều lộc Phật, những oản, chuối, xôi, tấm bánh đa vừng, củ khoai sọ sư bà nhờ
người đi chợ mua giùm. Mùa tiếp mùa đuổi nhau đi. Tiểu lân la mé sân chùa, nhóng
vào bàn thờ Phật mà không dám bước qua ngạch cửa.
Thảng như ngấm mỗi hương mùa. Này sen hạ nồng nàn. Này cúc thu đăng đắng. Này
ngâu mùi hương sao mà mảnh khảnh. Và xuân cạn, sân chùa tím hoa xoan. Cứ ngỡ đời
cũng theo mùa mà đi, chẳng có gì thay đổi nữa. Mà sao thiếu thiếu mãi một niềm gì.
Đâu rồi tiếng cười khanh khách, đâu rồi giọng chòng ghẹo đầy thúc bách. Cái eo thon
uốn quanh cán chổi dài tiểu cầm tay tránh né, vồng ngực đàn bà, đầu vú nổi sau làn yếm
trắng lóa mắt. Đâu rồi? Những ngày gần mà xa chờn vờn níu kéo. Đêm nào bờ giếng.
Thiện Sĩ đứng nép dậu cúc tần ngắm người vợ trẻ vừa tuột yếm. Thị Kính bối rối quay
lưng khi nghe tiếng mẹ chồng thẽ thọt cuối chái nhà ngang về nết đàn bà đi đứng nằm
ngồi. Chiều nào dốc bến. Thị Kính nhìn quanh trước lúc dìm mình xuống nước, thấy nụ
cười mình tan trong sóng, nghe tiếng chúng bạn cười ròn về nỗi nàng quá đỗi rụt rè.
Vòng váy dập dờn ôm trùm ngực gái tơ như chiếc lá sen đương thì ngày hạ. Bến trên,
tiếng đàn ông cười như phá. Đôi ba thân hình trai trẻ trần truồng nhào bơi xuống lại vội
vã bơi ngược lên khi nghe tiếng cười đuổi của đám chị em. Những trưa nào hanh hao
nhoài người bên chiếc cối xay, nách áo mồ hôi đẫm. Những sáng nào gió hẩy ra đồng
làm cỏ lúa, lòng phơi phới nhớ phiên chợ sắp tới, chẳng biết mình muốn gặp ai, chỉ thấy
ngực hình như cứ mỗi ngày một căng hơn dù chưa tới ngày thấy tháng. Những đêm nào
xong việc hàng xáo, dội ào gáo nước ngoài cầu ao rồi lẩy bẩy chạy vào giường, bàn tay
đứa bạn gái quơ ngang ngực, bàn tay chính mình vuốt dài xuống bụng, rúc rích tiếng
cười xuân thì. Lâu lắm rồi, ngực tiểu nén chặt sau dải vải diềm bâu, thân dáng thanh
thoát nhìn qua tấm áo nâu sồng chẳng ai biết gái giả trai trốn nợ dương thế. Nhưng Thị
Màu mất dạng. Những cô yếm trắng thì vẫn lên chùa. Không ai lơi lả đầu mày cuối mắt
cùng tiểu nữa. Lòng tiểu an nhiên. Nghiệp này sắp dứt rồi chăng khi chữ duyên này cạn.
Đứa trẻ lớn lên, thôi đêm đêm rúc đầu vào nách tiểu. Bàn tay tiểu cũng lâu rồi thõng
Lê Minh Hà - Cổ Tích

bên mép chõng thôi không lần tìm thịt da mình. Tiểu chẳng biết, dưa muối qua ngày
hay những cối rau răm giã nát vắt lấy nước uống đều đều đã giúp mình được vậy. Lòng
không hờn oán nữa. Cũng chẳng còn thấy thương thân. Hình bóng Thiện Sĩ thôi không
đi về trong những giấc mơ tục lụy nơi đất chùa. Chỉ có Thị Màu. Sao tiểu mong gặp lại
Thị Màu, nghe lại tiếng cười khanh khách giọng chòng ghẹo giòn tan thúc bách. Màu
ơi!

Tiếng hát thì thầm:

Lên chùa chân em bước khoan khoan


Ta mô mô phật mà tâm can rối bời
Búp sen này chắp lạy người
Ví bằng đổi phận được thì đời ra sao?

Tiếng đế:
Nỗi má đào…
Nỗi má đào…

Sư bà chậm chạp quay nhìn ra sân chùa. Trong bóng tối hậu liêu, sư bà thấy rõ dáng
tiểu Kính mỗi ngày một còm cõi. Nhưng sao mắt tiểu sáng thế kia. Sáng như mắt người
trong cơn sốt. Hằng đêm, sư bà nằm nghe tiếng gió động ngoài vườn, mất ngủ vì tiếng
ho khúc khắc của tiểu. Đứng ngẫm nghĩ một lúc, sư bà bước ra sân:
“Đêm qua con ho nhiều hơn mọi đêm…”
Tiểu Kính dừng ngang vệt chổi, ngước mắt nhìn. Sư bà giật mình. Trong đôi mắt sáng
kia thiếu hẳn một chút gì ẩm ướt như là bóng nước ngày xưa luôn có. Mắt tiểu sáng và
khô. Là lòng tiểu yêu thương đã cạn rồi hay chỉ vì bệnh tật? Sư bà giữ giọng an nhiên:
“Thằng bé cũng nhớn nhao rồi. Con nên để nó tập làm dần. Mà ta muốn hỏi, sau này…
con định cho nó ra sao?”
“Sau này…” Tiểu Kính nén tiếng thở dài, liệu còn có “sau này” nữa? Tiểu hít một hơi
sâu, nghe đau đau trong lồng ngực. Má tiểu dậy một màu hồng rất mỏng khi tiểu mỉm
cười nhẹ nhõm với sư bà:
“Đời con con còn không định được, gửi thân ở chùa, biết đâu… Cháu nó vẫn còn tuổi
dại, thôi thì trăm sự cha con con xin nhờ cửa Phật…”
“Mô Phật! Dầu gì thì ta cũng phải hỏi cho biết ý con. Hôm rồi ngồi cùng bà lang Chỉ, ta
nghe nói lá nhót lá táo sao vàng hạ thổ rồi sắc lấy nước uống có thể trị bệnh ho, con nên
thử. Sắp lập xuân rồi, táo trổ hoa rồi, con xem, chỉ mấy hôm nữa dàn nhót lá xanh um
cả. Vườn chùa hết thì sai thằng bé chịu khó nhảo vào trong xóm…”
“Dạ… thưa thầy” - Tiểu nhẹ giọng trả lời sư bà, gắng nén một cơn ho đang cuộn dần
lên trong ngực. Bất chợt nàng lại nghĩ tới hai chữ “sau này” của sư bà. Sau này, với
nàng là bao nhiêu ngày tháng nữa?

Ít lâu nay giời đất đã ấm, nhưng tiểu ho nhiều, thấy lạnh về đêm. Mà da thịt lúc nào
cũng hâm hấp nóng và ngực như bị cái gì nén chặt, một hơi thở nhẹ cũng đau đau. Lòng
Lê Minh Hà - Cổ Tích

tiểu dẫu vậy vẫn bận bịu bao nhiêu ý nghĩ. Tiểu nhớ những oan nghiệt trải suốt đời
mình. Nửa sau cuộc đời, tiểu chẳng biết mình sẽ tới đâu, chỉ biết, nửa trước đời mình
nàng không trở về được nữa, mà cũng chẳng còn day dứt muốn trở về. Mẹ mất sớm khi
tiểu còn tuổi dại. Cha cũng chết rồi trong nghèo túng, buồn tủi và nhục nhã vì bao nhiêu
điều tiếng về con gái của xóm giềng. Tiểu nhớ chiều đông tìm về bên mồ cha mẹ trong
bãi tha ma của làng. Mồ cha mới lấp không có người trông nom đã sụt ít nhiều. Cỏ khô
sống sót dưới mõm trâu bò tháng đói nom lẳng khẳng không che kín đất. Muộn rồi. Trẻ
trâu đã dong trâu bò về trốn rét rồi. Bầu trời xám nhờ úp chụp lấy nàng. Rải rác giữa bãi
tha ma dưới chân nàng là vết tích trẻ chăn trâu đốt lửa. Như một ngày xưa còn đó. Tiểu
khép vạt nâu sồng, ngẩng mặt nhìn trời, gió bấc quệt ngang rát má. Nàng không nghĩ về
cha nữa, không nghĩ về đời mình nữa, với bao nhiêu vô tình thống hận. Mà sao nước
mắt cứ ứa, lặng lẽ. Đấy là lần cuối cùng tiểu khóc. Cũng là lần đầu nàng hiểu ra bao
nhiêu thống khổ của đời mình không phải sự bỗng dưng. Giá như nàng biết sống sao
cho đừng đầy đặn một chữ tình như vậy. Giá như nàng đừng thiết tha quá về cái đời
chung mới sống, đừng băn khoăn về cái lông mũi mọc ngược của chồng. Ừ, đâu phải
chuyện cái kéo ấy liền tay. Giá như nàng đừng thương đừng nể Thị Màu đến thế, đừng
ngẫm về cái đời cam chịu của mình nhiều đến thế… để mà im lặng… thì liệu Thị Màu
có thân chòng chành mắt lúng liếng mãi không? Giá như nàng đừng dằn vặt mình
chong mắt đêm đêm. Thì sẽ có người khác nghe được tiếng trẻ khóc đòi hơi mẹ ngoài
tam quan. Thì nàng sẽ không phải chịu roi vọt nhục nhã chết đi sống lại. Giá như nàng
rời chùa bỏ đứa bé lại… Giá như… Giá như… Bóng Thiện Sĩ chợt hiện lại mờ đi. Dáng
Thị Màu chấp chới vờn quanh tiểu… má hồng môi thắm… yếm trắng váy chùng… vạt
áo thắt quả găng phấp phới… cái mâm bồng chao nghiêng… Tiểu Kính hoảng sợ khi
nhận ra mình nghĩ mãi về Màu và bị toàn hình bóng đàn bà ám ảnh. Trong trí nàng,
hiển hiện những mắt môi, những ngấn cổ, những vòng eo, những bầu vú. Chẳng phải
lúc nào cũng đẹp, nhưng gần gũi và tin cậy quá. Này bầu vú nhẽo nhèo của chị cả Năng
chảy thượt dưới lần yếm nâu phai. Này núm vú đen đen của Thắm lần đầu có chửa. Này
Gái với mái tóc rối và mùi da thịt đượm hơi than cả tháng trời sau sinh nở. Cuối cùng,
trở đi trở lại, là cái cổ cao cao, cặp môi cắn chỉ, đôi mắt lúng liếng, làn yếm trắng căng
và dáng hông lắc theo mỗi bước Màu đi. Màu ơi! Vờn quyến mãi gì nhau?

Tiếng thì thầm:

Em đa tình nên ta lại đa đoan – Chung thân rồi cũng thế còn oan trái nhiều - Lụy gì
nhau một chữ yêu – Ném tung đi cho gió nổi bốn chiều bão giông – Thân ta đây làm
đàn bà thì bị vu lỗi đạo với chồng – Gửi thân làm chú tiểu lại vướng vòng tình em…

Tiếng đế:

Ớ này nghiệp!
Ớ này duyên!
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Cảnh 4: Bóng tối. Vườn chuối về khuya im gió. Thân chuối đứng im như bóng người
tăm tối, cô độc bên nhau.
Đêm ấy, đêm tiểu Kính trút được thân xác, nàng vật vã mãi. Sư bà nghe tiếng trẻ con
khóc váng lên gọi cha ở xó vườn, lặng lẽ thắp hương cắm suốt lượt bàn thờ rồi rời chân
xuống với tiểu. Tiểu vừa thổ huyết, tấm thân mỏng dán xuống những nan chõng đã lên
nước, một tay bấu chặt thành chõng, một tay sờ sờ vai nhỏ của đứa con đang khóc hức
hức vì sợ. Sư bà bẻ cái nan vách làm nòm, lần xuống bếp thổi lửa, châm vào đĩa dầu.
Sợi bấc rụt rè bắt sáng. Lần tay xuống ngang người tiểu, thấy lưng nàng sát mặt chõng,
sư bà thở dài. Tiểu nhìn sư bà, mắt như có ánh gì chiếu rọi, đôi môi khô nẻ mấp máy,
nhưng không một tiếng nào thoát được ra. Sư bà cúi đầu, lầm thầm một lời kinh. Tiểu
rướn mình thở hắt, nhắm mắt, hai giọt lệ chảy ngược vào chân tóc.

Tiếng đọc chậm rãi:

Thuở làm vợ để chồng ngờ thất tiết


Lúc làm trai cho gái đổ oan tình
Phận liễu bồ sống vậy cũng bằng không

Tiếng đáp vọng:


Không…
Không…
Không…

Không ai biết, ở phút cuối đời, tiểu Kính đã mong một bàn tay cởi giùm dải vải diềm
bâu dùng bó ngực bấy lâu cho đôi vú nàng được một lần căng nở phì nhiêu lại. Không
ai biết, trong tấm thân xơ xác như mảnh lá chuối khô kia, trái tim vẫn còn đập rướn
dưới bầu vú đàn bà teo quắt. Không ai biết, lúc đó tiểu Kính thấy gì. Nàng đã gặp. Phật
bà Quan âm. Nét cười vô úy. Nhưng không phải nghìn tay nghìn mắt. Thay cho mắt,
cho tay, là những nhũ hoa, những hạt mận xinh hồng, những nhụy tầm xuân ngả màu
thâm, những bầu vú đàn bà vồng lên sau bóng Phật. Như những miền đồi khô hạn chạy
về phía chân trời. Tiểu Kính thấy mình chập choạng, đi. Triền cao lũng thấp. Nàng vập
mặt vào đất, giữa những bầu vú đàn bà. Tiếng hát nào thao thiết trên đất đai dẫn dắt
nàng âu yếm thế. Phía ấy, nơi tuổi thơ, nơi thì con gái, nơi gió nao nao những mùi năm
tháng cũ. Kính thấy mình bay. Tầm xuân.

Cảnh cuối
Mười mấy năm sau…
Sân chùa. Đất ẩm sau mấy ngày mưa. Hơi xuân phơi phới lặng lẽ. Từng chùm hoa
xoan bung cánh, màu tím còn chưa phai bạc, nhưng vẫn là cái màu chưa bao giờ lộng
lẫy hẳn. Sư bà mới đi đâu về cúi mình bên vại nước rửa chân.
Lê Minh Hà - Cổ Tích

Thằng bé ngày xưa giờ đã thành chú tiểu, ăn uống kham khổ vậy mà dáng vẫn lộc ngộc
cao to. Một chiều xuân có người đàn bà đuôi mắt đã rạn chân chim nhưng vẫn nhìn ra
những ngày lúng liếng dừng bước trước mái tam quan, dắng tiếng. Tiểu lê chổi ra,
người đàn bà run giọng. Tiểu ngoái nhìn. Sư bà dường không thấy không nghe, vẫn cúi
mình bên vại nước. Gió rất nhẹ và hoa xoan rơi trên đất, như có như không âm thầm.
Mặt tiểu ngơ ngơ bình thản. „Mô phật. Thí chủ lầm rồi. Cửa chùa là nơi người gửi con
chứ có ai lại tầm con. Mô phật.“

28. 12. 2007 – 28. 1. 2008


Đầy tháng Đan Nam

Você também pode gostar