Escolar Documentos
Profissional Documentos
Cultura Documentos
26/08/2009 8:47
PNO – Nhắc đến ẩm thực của nước Mỹ, người ta thường nghĩ ngay đến fast food –món ăn đặc trưng cho lối sống và phong cách Mỹ: mọi
việc đều nhanh chóng, đơn giản và gọn gàng.
“Fast food” là một cụm từ dùng để chỉ những món ăn vừa chế biến nhanh vừa có thể ăn trong thời gian nhanh, thậm chí để ăn tranh thủ trên đường
đi. Fast food được chế biến từ những nguyên liệu đảm bảo nguồn năng lượng cần thiết cho một ngày lao động nhẹ. Hình ảnh một người Mỹ vội vàng
đi trên đường phố, với túi đựng fast food trên tay, đã được coi là tiêu biểu cho lối sống, phong cách Mỹ.
Một trong những bậc tiền nhân của ngành fast food Hoa Kỳ là Carl Karcher. Sinh trưởng tại vùng nông thôn bang Ohio, năm 24 tuổi, Carl dời quê nhà
đến California với ước mơ về cuộc sống tươi đẹp ở chốn thị thành hoa lệ. Năm 1939, ông quyết định tự kinh doanh bằng việc bán xúc xích dạo đến
tận tay những tài xế lái xe trên đường. Từ quầy thức ăn, Carl mở rộng thành những nhà hàng mang tên ông và tiếp tục kinh doanh thịt nướng tới tận
tay những bác tài vì đường xá đông đúc mà không muốn bước ra khỏi xe mua thức ăn. Carl đã biến việc ăn uống trên xe thành mốt thời bấy giờ.
Những cô phục vụ trong trang phục hấp dẫn, di chuyển như bay trên những đôi giày patin, mang thức ăn tới tận xe đem lại cho thực khách cảm giác
vô cùng thú vị.
Trong khoảng thời gian đó, hai anh em nhà McDonald cũng theo đuổi mô hình kinh doanh giống như Carl tại bang California. Sau một thời gian,
McDonald hợp tác cùng Ray Kroc - người cung cấp sữa lắc cho cửa hàng – khai trương cửa hàng McDonald’s phục vụ thức ăn nhanh đầu tiên tại
bang Chicago. Thực đơn của cửa hàng gồm bánh hamburger, khoai tây và sữa lắc. Bánh hamburger và khoai tây là nguồn doanh thu chính của cửa
hàng McDonald’s. Sau đó, cửa hàng đã chế biến một số những loại bánh mới để phù hợp với nhu cầu của mỗi địa phương.
Một nhãn hiệu thức ăn nhanh nổi tiếng khác của Mỹ là KFC (có nghĩa là Kentucky Fried Chicken- Gà rán Kentucky) với người sáng lập là ông
Harland Sanders. Món truyền thống của KFC là gà rán Kentucky do chính tay ngài Sanders sáng chế bằng cách thêm những gia vị khác nhau vào
món gà rán thông thường. Hiện nay, KFC là hệ thống nhà hàng phục vụ gà rán lớn nhất với hàng ngàn cơ sở kinh doanh trên khắp thế giới.
Ngoài những thương hiệu fast food lừng danh thế giới trên, nước Mỹ còn vô số những đại gia khác đang hoạt động trong ngành công nghiệp hái ra
tiền này như Pizza Hut, Burger King, Whataburger …
Fast food ở Mỹ rất đa dạng: không chỉ có hamburger, sandwich hay pizza mà còn có các loại khác như cơm trộn, mỳ trộn, hotdog, khoai tây chiên …
Riêng hamburger và khoai tây chiên được coi là mặt hàng chủ đạo của những nhà hàng kinh doanh fast food. Thành phần của hamburger gồm có
một chiếc sandwich kẹp với miếng thịt xay, gia vị đi kèm là tương ớt, tương cà và một số nước sauce khác. Nước uống khi ăn hamburgur thường là
nước ngọt có gas. Khẩu phần này sẽ cung cấp 1.800 kcal, đủ cho một nhân viên văn phòng làm việc suốt ngày.
Fast food rất giàu tinh bột chất béo và chất đạm, nhưng lại rất ít rau xanh. Với những gia vị kích thích sự ngon miệng, một người thể dùng tới 2 – 3
phần ăn một lúc. Đó chính là điều kiệh để năng lượng thừa tăng lên. Bên cạnh đó lối sống công nghiệp khiến sự di chuyển, vận động của con người
ngày càng ít đi. Tất cả những điều đó chính là nguồn gốc gây nên căn bệnh béo phì.
Tuy thế, không ai phủ nhận sự ngon lành, sự tiện lợi mà fast food mang lại cho con người, đặc biệt trong nhịp sống hối hả ngày
nay. Những nhà hàng fast food của nước Mỹ đang mọc lên như nấm trên toàn thế giới.
Nói đến chuyện ăn uống của người Mỹ, nhiều người thường nghĩ ngay đến các loại fast food (thức ăn
nhanh). Nhưng thật ra, macaroni và phô mai mới là một trong những món ăn bình dân được người Mỹ
ưa chuộng nhất.
Macaroni là một loại nui tròn, ngắn, cong, làm từ bột mì có nguồn gốc từ Trung Quốc, được nấu chín và dọn dùng chung với phô mai
ở khắp nước Ý trong vòng hơn 500 năm qua. Món này du nhập vào nước Ý nhờ Marco Polo. Đến thế kỷ 18, các dạng khác nhau của
món nui này trở nên nổi tiếng khắp châu Âu. Trong quá trình đi tìm thuộc địa, người Anh đã mang món ăn này tới Bắc Mỹ. Từ những
năm 1800, thực đơn của nhiều phiên bản macaroni và phô mai đã xuất hiện trong các cuốn sách hướng dẫn nấu ăn tại Mỹ.
Theo tác giả của cuốn Từ điển ăn uống của Mỹ, John Mariani, macaroni và phô mai xuất hiện ở Mỹ từ thế kỷ 19 và ngày càng trở
nên phổ biến trong đời sống người Mỹ. Thomas Jefferson (1743–1826) - Tổng thống đời thứ 3 của Mỹ từng chiêu đãi món này trong
một bữa tiệc tại Nhà Trắng vào năm 1802.
Vì macaroni và phô mai là một món tiện dụng và dễ chế biến nên món này ngày càng được chuộng trong các gia đình. Nắm bắt nhu
cầu này, năm 1937 công ty thực phẩn Kraft đã cho ra mắt thị trường thực phẩm Mỹ và Canada sản phẩm bữa tối làm sẵn với
macaroni và phô mai, thành công vang dội.
Đến thế chiến thứ 2, sản phẩm này càng phổ biến hơn. Trong thời chiến, việc tiết kiệm được đưa lên hàng đầu, thịt trở thành một
thứ xa xỉ. Sữa tươi và những sản phẩm từ sữa cũng trở nên khan hiếm hơn. Hàng triệu đàn ông phục vụ trong quân ngũ nên phụ nữ
phải tham gia lao động. Lao động mệt mỏi, phụ nữ rất chuộng việc dễ sử dụng và nhanh gọn của món ăn này,
nhất là món này còn có thể bù đắp dinh dưỡng cho các món thịt.
Cho đến nay, mỗi ngày Kraft vẫn bán ra khỏang 1 triệu hộp thực phẩm này. Hiện có rất nhiều dạng macaroni và phô mai nhưng
công thức cơ bản của nó gần như vẫn còn nguyên vẹn.
Chỉ cần nui macaroni luộc chín để ra khay, thêm phô mai bào mỏng hoặc xắt lát; nêm nếm thêm muối tiêu và bỏ vào lò nướng cho
tới khi phô mai chảy ra là lấy ra dùng được. Ngoài ra, có thể tùy ý cho thêm vào món này vụn bánh mì, rau củ xắt nhỏ, thịt băm
hoặc cá và các loại gia vị khác cho thêm hấp dẫn. Cầu kì hơn, có thể dùng chảo nhỏ nấu chảy bơ, thêm chút sữa và nhiều loại phô
mai, nêm nếm gia vị rồi mới đổ lên nui, sau đó cho vào lò nướng đến khi vàng mặt.
Nhiên Nguyễn
Thụy Lâm
Trong thực đơn của cư dân nước này sẽ có những điểm khác biệt với cư dân nước khác. Vì sao
lại tồn tại sự khác biệt này? Dường như bất cứ món ăn nào, từ châu chấu rang, cà cuống nướng
đến thịt chuột, nội tạng động vật như: lòng, gan, tim... đều có thể tìm thấy trong thực đơn của
người Việt. Những thức ăn này rất phổ biến, nhiều món trở thành đặc sản.
Tuy nhiên, các loại thực phẩm trên lại bị cấm kỵ ở một số nơi trên thế giới. Tại sao? Một số lý giải
sau sẽ giúp bạn tránh mắc phải sai lầm trong ăn uống khi có dịp đến một số nơi.
Động vật bò sát và lưỡng cư (cá sấu, rắn, ếch, thằn lằn...)
Thịt từ các loại động vật này được dùng để chế biến món ăn ở nhiều nước châu Âu và châu Á.
Ngoài ra, thịt ếch, đặc biệt là đùi ếch, được người Pháp, Bồ Đào Nha, Indonesia, Trung Quốc,
vùng Caribbean và một số nơi tại Mỹ ưa chuộng. Tuy nhiên, với người Do Thái hoặc Hồi giáo,
các loại thịt từ động vật lưỡng cư như: ếch, cá sấu và rắn là cấm kỵ.
Các loại thịt gia cầm như gà, gà tây, vịt được dùng để chế biến món ăn ở đa số các nước trên
thế giới. Tuy nhiên, có một số giới hạn trong hạng mục thịt từ các loài lông vũ như: ở châu Âu và
Mỹ, nhiều người không ăn thịt thiên nga (ngỗng trời). Ở Anh, thiên nga trắng được bảo vệ vì
người ta cho rằng đó là loài vật thuộc về nữ hoàng. Ngoài ra, hầu hết mọi người ở các nước
phương Tây xem các loài chim hót đều là động vật hoang dã nên không ăn thịt.
Thịt mèo
Được dùng ở miền Nam Trung Quốc và Việt Nam. Nhiều người cho rằng thịt mèo có tính nhiệt,
rất tốt khi dùng làm thực phẩm ăn vào mùa đông. Người ta sử dụng luôn một số cơ quan nội
tạng của mèo như: bao tử, ruột, còn đầu và các phần khác thì vứt đi. Ở Hàn Quốc, thịt mèo
thường dành cho người mắc bệnh khớp và đau dây thần kinh. Ngoài ra, thịt mèo còn phổ biến
trong thực đơn của người Peru. Trong dịp lễ hội diễn ra vào tháng Chín hàng năm ở La
Quebrada, nhiều người tham gia biểu diễn tài nghệ chế biến món ăn với thịt mèo. Người dân ở
một số vùng nông thôn của Thụy Sỹ và miền Bắc nước Ý cũng ăn thịt mèo.
Tuy chẳng có luật nào cấm ăn thịt chó ở Mỹ và các nước châu Âu, nhưng loại thực phẩm này
không được nhiều người chấp nhận. Có lẽ do suy nghĩ chó là loài vật rất trung thành với người,
lại là con thân thiết nên người ta không nỡ ăn thịt chúng. Ở Việt Nam, thịt chó khá phổ biến và
được nhiều người ưa thích, đặc biệt là "tín đồ" của các quán nhậu. Ở Hàn Quốc, nhiều quý ông
rất ưa món thịt chó nấu súp vì tin rằng nó tốt cho sức khỏe.
Thịt chuột
Đa số người phương Tây xem chuột là loài vật dơ bẩn, do đó thịt của chúng không thích hợp để
làm món ăn. Tuy nhiên, thịt chuột đồng lại được rất nhiều người ở vùng nông thôn Thái Lan, Việt
Nam và một số vùng ở Đông Dương ưa thích. Thịt chuột mía và chuột đồng rất giàu protein và
trở thành loại thực phẩm phổ biến ở châu Phi.
Ốc sên
Là loài nhuyễn thể mà con người có thể ăn được. Ở Trung Quốc và nhiều nước châu Á cũng
như Pháp và các nước thuộc vùng Địa Trung Hải, có rất nhiều món ăn chế biến từ thịt ốc sên.
Tuy nhiên nếu ăn thịt ốc sên ở Anh, Ireland và Mỹ, bạn sẽ bị người khác nhìn bằng ánh mắt khác
thường. Họ xem ăn ốc sên là hành động kinh khủng.
Thịt lợn
Người Hồi giáo, Do Thái không ăn thịt lợn. Người dân ở vùng Trung Đông cho rằng lợn là loài vật
không sạch sẽ và ăn tạp.
Thịt bò
Đây là loại thịt khá phổ biến ở nhiều nước trên thế giới và đứng sau thịt lợn. Nhiều người ở Anh,
Ireland, Mỹ và Canada không ăn thịt bê (bò con) vì lo ngại bị chỉ trích đối xử thô bạo với súc vật.
Ở Ấn Độ, thịt bò là thực phẩm cấm kỵ, đặc biệt đối với những người theo Đạo Hindu, bởi vì bò
được xem là linh vật.
Thịt ngựa
Được dùng phổ biến trong thực đơn của những người sống ở vùng Scandinavia (bao gồm Na-
uy, Đan Mạch và Thụy Điển ở Bắc Âu) và một số vùng ở châu Âu. Tuy nhiên, ở các nước Anh,
Mỹ và Úc, việc cung cấp loại thịt này bị xem là bất hợp pháp. Riêng ở Nhật Bản, thịt ngựa được
xem như món đặc sản và ăn sống giống sashimi.
Côn trùng
Châu chấu rang giòn được xem là món ăn bình dị ở một số vùng quê Việt Nam. Ngoài ra, nhiều
loại côn trùng khác như: dế, trứng kiến, ong, nhộng, nhện... cũng được chế biến thành món ăn ở
các nước châu Á như: Lào, Thái Lan, Campuchia, Nhật... Người dân Nam Phi dùng chung côn
trùng với cháo ngô. Người châu Âu rất hiếm khi ăn côn trùng vì xem đó là loài phá hoại mùa
màng chứ không phải nguồn thực phẩm.
1. Tại thị trấn Greene, bang New York, việc ăn đậu phộng và đi giật lùi khi đang xem hòa nhạc bị cho là một hành động vi phạm pháp luật.
2. Quy định của bang Massachusetts cấm những người thức canh tang lễ ăn quá 3 chiếc bánh mì sandwich.
3. Thành phố Beech Grove, bang Indiana lại cấm người dân không được phép ăn dưa hấu trong công viên.
4. Tại hạt Riverside, bang California, một người không được mang bữa trưa ra đường trong khoảng thời gian từ 11-13h trưa.
5. Quy định của bang Maryland cấm ăn khi đang bơi dưới biển.
6. Còn luật pháp tại hạt Marion, bang Ohio lại cấm ăn bánh rán trong khi đang đi giật lùi.
7. Ở thành phố Carmel, bang New York, một người sẽ vi phạm pháp luật nếu đứng ăn kem trên vỉa hè.
8. Quy định của thành phố Rosemead, bang California cấm dùng dĩa để ăn kem tại nơi công cộng.
9. Tại bang California, việc ăn cam trong bồn tắm cũng bị xem là hành vi phạm luật.
10. Và cuối cùng, tại thành phố Boston, ăn đậu phộng trong nhà thờ là phạm pháp. Đối với nhiều người, việc mang theo túi đựng đậu phộng trong suốt buổi lễ nhà
thờ vào ngày Chủ Nhật cũng được xem là một hành vi thiếu tôn trọng.
Có một số loại thực thực phẩm mà bạn sẽ không bao giờ nhìn thấy trong giỏ mua hàng của người Mỹ. Đây là thống kê của tạp
chí Men’s Health, kèm theo đó là lời giải thích và lời khuyên cho việc sử dụng các loại thực phẩm này đối với người Mỹ.
1. Quế
Nguồn ảnh: flickr
Quế giúp kiểm soát lượng đường trong máu, (đường ảnh hưởng đến nguy cơ bị bệnh tim). Trên thực tế, các nhà nghiên cứu của Bộ nông
nghiệp Hoa Kỳ, USDA cho thấy những người bị bệnh tiểu đường dùng 1g quế mỗi ngày trong 6 tuần (khoảng 1 / 4 muỗng) không chỉ làm
giảm đáng kể lượng đường trong máu của họ mà còn giảm triglycerides và LDL, cholesterol có hại. Thành phần hoạt chất trong quế, polyme
methylhydroxychalcone, làm tăng khả năng của các tế bào để chuyển hóa đường lên đến 20 lần
Chỉ cần sử dụng quế như gia vị vào cà phê hoặc bột yến mạch của bạn
2. Cải bắp
Nguồn ảnh: chemistryland
Mặc dù vắng mặt tại hầu hết trong các thực đơn của người Mỹ, tuy nhiên loại rau mang hình chữ thập này đã được chứng minh là một loại
thực phẩm lớn trong chế độ ăn của người châu Âu, châu Á. Tại sao bắp cải lại tốt? Một chén cải bắp băm nhỏ chỉ có chứa 22 calo, và dồi dào
các chất dinh dưỡng có giá trị. Trên thực tế, tại trường Đại học Stanford, các nhà khoa học đã xác định rằng bắp cải chứa nhiều sulforaphane,
một chất hóa học của cơ thể giúp làm tăng quá trình sản xuất các enzym chống lại ung thư, tế bào gốc tự do gây tổn hại và giảm nguy cơ ung
thư với hàm lượng cao hơn các loại rau khác.
Kẹp cải bắp với bánh mì rồi thêm các loại thực phẩm, gia vị hợp khẩu vị khác. Hoặc chế biến thành các món salad theo phong cách châu Á.
3. Củ cải
Cà rốt và củ cải đỏ. Nguồn ảnh: opera
Củ cải chứa lượng chất ngọt tự nhiên nhiều hơn bất cứ loại rau khác.Tại sao củ cải tốt cho sức khỏe? Hãy nghĩ rằng của củ cải cũng như rau
bina (rau chân vịt), loại rau “sức mạnh” của thủy thủ Popeye. Củ cải, đặc biệt là củ cải đỏ được coi là một trong những nguồn cung cấp folate
và betaine tốt nhất. Hai chất dinh dưỡng này “làm việc” cùng nhau để giảm mức độ homocysteine trong máu của bạn, chất có thể tổn thương
động mạch của bạn và làm tăng nguy cơ bệnh tim.
Tốt nhất là ăn tươi. Củ cải sấy hoặc đã khô sẽ giảm khả năng chống oxy hoá trong chúng. Bạn có thể ăn lá và thân cây cải, vì chúng cũng
giàu vitamin, khoáng chất và chất chống oxy hoá.
4. Ổi
Nguồn ảnh: violet.vn
Ổi là một trái cây nhiệt đới, có vị chua, ngọt.Tại sao ổi tốt? Ổi chứa hàm lượng lớn lycopene, một chất chống oxy hoá, chống ung thư tuyến
tiền liệt hơn bất kỳ thực phẩm thực vật khác hơn cà chua và dưa hấu. Ngoài ra, 1 chén ổi cung cấp 688 milligram (mg) kali, (hơn lượng kali
trong một trái chuối trung bình 63 %). Và ổi là thực phẩm giàu chất xơ, các chuyên gia dinh dưỡng cho rằng có gần 9 gram (g) chất xơ trong
mỗi cốc ổi.
Ổi có thể ăn được cả vỏ bởi chúng chứa rất nhiều chất bổ dưỡng. Lượng vitamin C trong ổi nhiều hơn lượng vitamin C của một trái cam.
Đây là một loại rau phổ biến ở các nước: Trung Quốc, Mexico, và Hy Lạp …Tại sao rau sam lại tốt? Theo các nhà nghiên cứu tại Đại học Texas
tại San Antonio: rau sam là thực vật chứa nhiều chất béo omega-3 hơn bất kỳ các loại khác. Còn theo các nhà nghiên cứu tại Đại học Texas
tại San Antonio thì các nhà khoa học cũng báo cáo rằng loại thảo mộc này có chứa gấp 10-20 lần melatonin, đây là một chất chống oxy hoá
có thể ức chế sự phát triển ung thư hơn bất kỳ loại trái cây hoặc các loại rau khác.
Chế biến thành các món salad. Rau sam có thể thay thế rau diếp.
Nguyên nhân
Trước hết, về điều kiện tự nhiên Mỹ có hai lợi thế về thực phẩm.
Thứ nhất, là một nước nông nghiệp hàng đầu, nước Mỹ luôn có sẵn nhiều loại thịt, hoa quả và
rau tươi với giá khá rẻ. Đây là một lý do giải thích tại sao bittet hay thịt bò rán có thể được coi là
món “đặc trưng” nhất của Mỹ; món này có nhiều hơn các món khác. Nhưng món gà quay ngon
của vùng phía Nam cũng là món có danh tiếng, cũng như món jambon hun bằng khói gỗ hồ đào
hoặc jambon tẩm đường, món gà tây, tôm hùm tươi, và nhiều hải sản khác như cua hay trai.
Ở một đất nước nhiều vùng khí hậu khác nhau và nhiều khu vực trồng rau quả, thì người Mỹ
không cần phải nhập quá nhiều những thứ rau quả tươi như bưởi, cam, chanh, dưa hâu…Điều
này lý giải tại sao hoa quả và salat là những món ăn phổ biến ở Mỹ.
Thứ hai – đó là những người nhập cư đã mang theo và còn tiếp tục mang theo những món ăn
truyền thống của đất nước và nền văn hóa của họ khi tới Mỹ. Sự phong phú về thức ăn và kiểu
ăn cũng là một nét văn hóa rất đặc trưng của Mỹ.
Về điều kiện xã hội, do những đòi hỏi và yêu cầu của một đất nước công nghiệp, người Mỹ rất
bận rộn và rất chú ý chất lượng, bữa ăn đơn giản, gọn nhẹ mà vẫn đảm bảo cung cấp năng
lượng cho một ngày làm việc căng thẳng sẽ giúp họ có nhiều thời gian nghỉ ngơi thư giãn hơn và
rồi “thức ăn nhanh” đã trở thành một phần quen thuộc trong bức tranh thường ngày, giống như
những khía cạnh khác của nền văn hóa Mỹ, mà ở phần 2 của bài báo cáo sẽ được trình bày cụ
thể hơn.
2.3. Bước phát triển của ngành công nghiệp thức ăn nhanh
Thức ăn nhanh đã 1 có lịch sử lâu dài, hình ảnh cửa hàng thức ăn nhanh gắn liền với nhiều nền
văn hóa khác nhau như: quầy bánh mỳ kèm với trái olive thời La mã cổ đại, tiệm mì ở các quốc
gia Đông Á, bánh mì lát vùng Trung Đông….Song ý nghĩa thực sự của thức ăn nhanh hiện đại
chỉ bắt đầu tại Mỹ vào năm 1912 với mô hình cửa hàng Automat phục vụ thức ăn sẵn. Bước
sang thế kỷ 21, ngành công nghiệp này đã giúp nước Mỹ kiếm đước 142 tỷ USD( năm 2006),
gần bằng con số 173 tỷ USD doanh thu của tất cả các nhà hàng truyền thống tại nước này cộng
lại.
Trước khi nói đến sự phát triển của ngành công nghiệp thức ăn nhanh ở Mỹ và trên thế giới như
thế nào, thì chúng ta có thể điểm lại một tí về lịch sử của công nghiệp thức ăn nhanh.
Một trong những người sáng lập nên ngành công nghệ thức ăn nhanh là Carl Karcher, sinh tại
Ohio. Năm 1939, ông đã đến California và mua một xe ngựa để đi bán xúc xích dạo cho khách
ngồi trong xe hơi. Công việc rất phát triển, Carl đã mở một quầy ăn di động chuyên phục vụ cho
các thực khách ngồi trong ô tô với tên gọi “ quầy thịt nướng lưu động dành cho thực khách xe
hơi Carl” (Carl’s Drive-in Barbecue).
Cũng thời gian đó, hai anh em nhà McDonald, Richard và Maurice, đã rời quê nhà New
Hampshire đến California mở một rạp hát nhưng thất bại. Biết dân Mỹ đang rất thích ăn trong
quầy hàng drive-in, họ đã mở một quầy hàng như thế tại Rasadena, California 1939 với tên gọi
“Thịt băm viên nổi tiếng của McDonald” (McDonald’s Famous Hamburgers).
Nhiều doanh nghiệp trên khắp nước Mỹ đã tìm đến quầy hàng McDonald ở California để xem
quầy hàng hoạt động như thế nào. Sau đó, họ đã trở về quê hương và dựng lên những quầy
hàng giống McDonald của riêng mình. Ngay cả Carl, cha đẻ của ngành thức ăn nhanh cũng đã
mở một loạt các quầy hàng thức ăn nhanh với tên gọi Carl.
Ray Kroc là một người bán hàng, chuyên cung cấp “milkshake - sữa lắc trước khi uống và thức
ăn trộn” cho cửa hàng thức ăn phục vụ lái xe và khách hàng qua đường của hai anh em Dick và
Mac McDonald
Kroc nhìn thấy tiềm năng phát triển của công việc kinh doanh này và quyết định tham gia vào.
Anh em nhà McDonald đã đồng ý với lời đề nghị của Kroc về việc mua lại bản quyền “quán ăn
nhanh”. Và ngày 15 tháng 4 năm 1955, Kroc khai trương cửa hàng McDonald’s phục vụ thức ăn
nhanh đầu tiên tại Des Plaines, ngoại ô phía bắc Chicago. Với tốc độ phát triển cực nhanh, hệ
thống các cửa hàng McDonald’s bán được hơn 100 triệu chiếc bánh hamburger trong vòng 3
năm đầu tiên và cửa hàng McDonald's thứ 100 được khai trương 4 năm sau đó, năm 1959
McDonald's phục vụ khách hàng với chất lượng thức ăn tốt nhất. Các nguyên liệu thô để chế
biến đồ ăn đều được đặt mua từ các nhà cung cấp trong một thời gian dài. Đồ ăn được chuẩn bị
theo tiêu chuẩn cao và nhất quán. Các thực đơn của McDonald's luôn luôn được xem xét và cải
thiện để chắc chắn thoả mãn được sự mong đợi của khách hàng.
Trong thực đơn của các nhà hàng McDonald’s ở Mỹ có thêm cả bia, gà, cá, salát và các món ăn
chay, cộng thêm hàng loạt các món tráng miệng, thức uống nóng và lạnh với nhiều mùi vị khác
nhau.
McDonald’s là cửa hàng ăn phục vụ nhanh đầu tiên công khai đưa danh sách tất cả thành phần
thức ăn và các phân tích về giá trị dinh dưỡng một cách chi tiết tất cả các sản phẩm của họ. Năm
2000, McDonald's cho ra đời một số sản phẩm mang tính chất đổi mới như McSalad, Shaker và
Fruit N’Yogurt Parfaits (Kem sữa chua Trái cây), dễ ăn hơn trong những lúc bận rộn
McDonald’s không chỉ phổ biến ở trong nước Mỹ mà còn nhanh chóng có được những thành
công trên thị trường quốc tế như Canada, Nhật Bản, Úc và Đức. Ngày nay, có khoảng 1.5 triệu
người làm việc cho McDonald’s trên toàn thế giới. Khởi đầu McDonald’s chỉ là một hiện tượng
của nước Mỹ nhưng nay nó đã trở thành một thương hiệu quốc tế đích thực
Nhãn hiệu thức ăn nhanh nổi tiếng thứ hai trên thế giới sau McDonald’s là KFC (trước đây viết
tắt trong tiếng Anh của Kentucky Fried Chicken, có nghĩa là Gà rán Kentucky) . KFC chủ yếu kinh
doanh các món ăn nhanh làm từ gà và món nổi tiếng nhất là Gà rán Kentucky do ông Harland
Sanders sáng chế. Ngày 1 tháng 10 năm 1986, nhãn hiệu "Kentucky Fried Chicken" được Pepsi
Co mua lại vào và đổi logo thành “KFC” năm 1991. Hiện nay, KFC là hệ thống nhà hàng phục vụ
gà rán lớn nhất với hơn 10.000 nhà hàng tại 92 quốc gia. KFC và hệ thống nhượng quyền đang
tạo việc làm cho hơn 200.000 người trên toàn thế giới.
2.4. Vai trò và ảnh hưởng của thức ăn nhanh đối với đời sống xã hội Mỹ và hiện tượng “Mỹ hóa”
Dường như fastfood đã có mặt hầu hết ở bất kì mọi xó xỉnh hay ngõ ngách nào trong xã hội Mỹ.
Với sự phát triển vượt bậc của ngành công nghiệp thức ăn nhanh ở Mỹ đã chứng tỏ rằng thức
ăn nhanh có vai trò rất quan trọng ở Mỹ và là một loại thực phẩm không thể thiếu ở đất nước
này.
Có thể nói fastfood được xem như là biểu tượng của nước Mỹ. Fastfood được phục vụ ở nhà
hàng, sân vận động, sân bay, vườn bách thú, trường học, trên tàu, trên máy bay, ở các đường
phố và thậm chí ở cả bệnh viện. Đâu đâu cũng có nhu cầu về fastfood vì nó đã trở nên một thực
ăn không thể thiếu trong đời sống người Mỹ.
Năm 1970, người Mỹ tốn khoảng 6 tỷ USD cho thức ăn nhanh, năm 2000, họ tốn hơn 110 tỷ
USD. Bây giờ người Mỹ tốn nhiều tiền cho thức ăn nhanh hơn nhanh cho giáo dục, máy tính cá
nhân, phần mềm máy tính hay là xe mới. Họ tốn nhiều tiền cho thức ăn nhanh hơn điện ảnh,
sách, báo, tạp chí, băng đĩa và những việc thu âm nhạc. Vào mỗi ngày ở Mỹ có ¼ người lớn vào
các nhà hàng thức ăn nhanh.
Trong suốt khoảng thời gian tương đối ngắn, ngành công nghiệp thức ăn nhanh đã giúp làm biến
đổi không những trong bữa ăn của người Mỹ mà còn trong phong cảnh, kinh tế, lực lượng lao
động và nền văn hóa phổ biến của họ. Thức ăn nhanh và tầm quan trọng của nó là không thể
thiếu và không thể không quan tâm nếu bạn ăn nó 2 lần 1 ngày, thử tránh nó hay là nhịn đói.
Thức ăn nhanh dường như đã ăn sâu vào lối sống của người Mỹ. Vì thế, khi bất kì người nào
nhập cư vào Mỹ không ít thì nhiều đều ảnh hưởng lối sống của người Mỹ. Dù không mong muốn
nhưng khi đã đặt chân vào Mỹ thì người dân ở bất kì nước nào cũng đều “Mỹ hóa”, ít nhất là về
mặt ăn uống (*).Dù không thích nhưng sống trong môi trường lúc nào cũng hối hả và bận rộn thì
bạn phải thỏa mãn nhu cầu ăn uống của mình bằng thức ăn nhanh, một loại thức phẩm nhanh,
gọn, rẻ và đủ chất.
Trong 1 tháng , các nhà hàng thức ăn nhanh đã phục vụ thực khách tại Hoa Kỳ nhiều hơn tổng
số dân cả nước Tây Ban Nha. Mỗi ngày 40% dân Mỹ đi ra ngoài ăn tiệm. Quả thật thức ăn nhanh
giữ 1 vai trò khá quan trọng trong đời sống ẩm thực của người Mỹ. Và nhắc đến thức ăn nhanh
thì không thể không nói đến 1 chuỗi hệ thống các cửa hàng và nhà hàng thức ăn nhanh của Mc
Donald, một tập đoàn thức ăn nhanh lớn nhất thế giới.
Mc Donald đã trở thành biểu tượng sức mạnh của ngành kinh tế dịch vụ ở Mỹ. Nước Mỹ xem Mc
Donald như thương hiệu đại diện cho phong cách và lối sống ăn uống của họ. Thương hiệu thức
ăn Mc Donald cuả Mỹ không chỉ quảng bá về một sản phẩm nổi tiếng, mà còn quảng bá về một
hình ảnh nước Mỹ với mọi công chúng yêu ẩm thực. Và hiện nay Mc Donald chịu khoảng 90%
công việc mới cho đất nước. Năm 1968, Mc Donald hoạt động trên 1000 nhà hàng. Hiện nay nó
có khoảng 28000 nhà hàng trên khắp toàn cầu và mở thêm 2000 cái hàng năm. Doanh thu hiện
nay của Mc Donald là 6 tỷ USD, 1 con số mà bất cứ hãng thức ăn naò cũng mơ ước. Biệt danh
của Mc Donald là “ con gà đẻ trứng vàng”.
Thức ăn nhanh không chỉ ảnh hưởng đến gu ăn uống của riêng người dân bản địa Mỹ mà nó
ảnh hưởng đến tất cả các nước trên thế giới. Có lẽ các nước khác lại thích thức ăn nhanh của
Mỹ hơn là chính người Mỹ. Sự bành trướng của nhiều tập đoàn thức ăn nhanh của Mỹ trên toàn
cầu, đã khiến cho ở bất kì 1 quốc gia nào trên thế giới đều có các cửa hàng như: KFC, Mc
Donald…Hương vị của các loại thức phẩm kiểu Mỹ như bánh kẹp thịt, nước uống Cocacola…đã
lôi cuốn và hấp dẫn rất nhiều người khi đã từng thử qua 1 lần. Điều này như 1 thời trang, đô thị
hóa đã dẫn đến một lối sống rất hiện đại, rất thành thị và lối sống ấy đến từ Mỹ Trong Chủ nghĩa
thực dân văn hóa kiểu Mỹ , thành công lớn nhất trong lĩnh vực này chính là chuyện ăn uống.
Sự phát triển mạnh mẽ của Fast food đã làm không ít nhiều các quốc gia trên thế giới lo lắng về
thức ăn truyền thống của họ. Chúng ta biết rằng, Pháp là một quốc gia nổi tiếng về ẩm thực,
truyền thống bếp núc đã cho phép người Pháp thưởng thức những món kem nướng hay nước
sốt mà không ngại gặp nhiều phiền toái về sức khoẻ do ăn quá nhiều giống như ở Mỹ. Tuy vậy,
theo thống kê trong những năm trở lại đây, nước Pháp đã trở nên yếu hơn trước do ảnh hưởng
của thói ăn vặt du nhập từ Mỹ. Những cư dân đô thị đã phải chịu nhiều chứng bệnh liên quan
đến thói quen ăn uống hơn. Và nhà dinh dưỡng học M.Gerber đã nói rằng: “Đây là lối sống rất
hiện đại, rất thành thị. Và lối sống này đã đến từ Mỹ”. Qua đó, ta có thể thấy được Fast-food của
Mỹ đã ảnh hưởng rất nhiều đến người Pháp. Và bằng nhiều cách, nước Pháp đã cố tìm cách
chống lại chủ nghĩa thực dân văn hoá kiểu Mỹ.
Không chỉ ở Pháp, Fast-food cũng phát triển nhanh ở Việt Nam. Có mặt tại Việt Nam vào năm
1990, Fast-food đã nhanh chóng trở thành món được ưa chuộng của các đối tượng cư dân
thành thị. Với phong cách phục vụ tận tình, lịch sự, giá cả phù hợp và có mặt trong các siêu thị,
trung tâm thương mại , Fast-food đã nhanh chóng được mọi người dân lựa chọn.
Mọi sự việc đều có hai mặt. Bên cạnh sự tiện lợi, nhanh, gọn, hương vị độc đáo và giá cả phải
chăng của thức ăn nhanh thì sự ảnh hưởng lớn về măt sức khỏe là điều đáng quan tâm. Hiện
nay 60% người Mỹ bị mập phì. Hoa kỳ thật sự là 1 nước lớn, mọi thứ đều tiện lợi và phát triển.
Thế nhưng chục năm gần đây cũng là nước đứng đầu về bệnh mập phì, một căn bệnh đang đà
đi lên có thể vượt thuốc lá trong tương lai về nguyên do gây tử vong trên đất Mỹ. Ảnh hưởng đó
chính là do các loại thức ăn nhanh gây ra. Không chỉ có Mỹ mà dường như cả thế giới đều trở
nên mập phì nếu ảnh hương của lối sống Mỹ hóa trong thói quen ăn uống. 20 năm trở lại đây,
lượng người quá béo ở Mỹ đã tăng gấp đôi. Không chỉ có Mỹ , châu Âu và châu Á cũng theo
đuôi Mỹ sát nút. Tại một vài nước đang phát triển, tỉ lệ béo phì đang tăng nhanh hơn ở Mỹ. Ở
Mexico và Ai Cập cao hơn gấp 3 lần. Hàng năm số người bệnh béo phì ở Trung Quốc và Ấn Độ
đã nhiều hơn tất cả các nước khác gộp lại.
Fast food mới xuất hiện chỉ hơn nửa thế kỷ, nhưng sức ảnh hưởng của nó đến thế giới rất lớn và
đã làm thay đổi cuộc sống của chúng ta rất nhiều. Nó làm cho lối sống ngày càng nhanh, thích
nghi của con người đối với cuộc sống cũng trở nên nhanh hơn. Và trong tương lai, sự phát triển
của nó sẽ không dừng lại và tiếp tục đóng vai trò trong cuộc sống của mọi người.
Do các vùng miền, dân tộc không giống nhau nên các món ăn của người Mỹ rất đa dạng, khẩu vị cũng có sự khác biệt. Các món
ăn thường xuất hiện trong bữa cơm thường như xúc xích, bánh có nhân, gà rán KFC..đều là những món ăn nhanh phổ biến trên
toàn thế giới.
Nguồn ảnh: food
Người Mỹ có tính cách rất cởi mở, nhiệt tình và thoải mái, họ không bị trói buộc quá nhiều vào các lễ nghĩa phép tắc. Phong tục tập quán của
họ đã tồn tại từ rất lâu và không giống với các nước khác. Nước Mỹ là quốc gia có quan niệm rất coi trọng về thời gian.Các hoạt động khi bắt
đầu đều được ấn định về thời gian, đối với họ trễ hẹn là 1 điều không được sự với người khác. Và khi bạn có một cuộc hẹn thông thường với
người Mỹ, rất đơn giản bạn chỉ cần một cuộc điện thoại, đối phương sẽ vui vẻ nhận lời và đồng ý gặp trong thời gian sớm nhất.
Trong cuộc sống,người Mỹ họ cũng có nguyên tắc:”Có qua có lại mới toại lòng nhau” nhưng họ tuyệt đối kiêng kị trong việc nhận quà cáp.
Thứ nhất, người Mỹ họ không xem trọng về giá trị của vật chất. Thứ hai, pháp luật nghiêm cấm hình thức tặng quà vượt quá mức cho phép.
Những món quà được mang từ quê nhà như đồ thủ công, hàng mỹ nghệ, các loại rượu nổi tiếng… lại rất được người Mỹ ưa chuộng. Bên cạnh
đó những ngày nghỉ hay lễ tết, bạn được mời đến dùng cơm tại một gia đình người Mỹ thông thường cũng không phải mang theo quà cáp.
Nguồn ảnh: zing
Người Mỹ khi mời khách dùng cơm mang tính chất phần nhiều cho công việc họ thường đặt tiệc tại các nhà hàng, câu lạc bộ, mọi chi phí đều
do công ty chịu trách nhiệm. Các mối quan hệ bạn bè thân thiết được mời dùng bữa cơm cùng gia đình. Do các vùng miền, dân tộc không
giống nhau nên các món ăn của người Mỹ rất đa dạng, khẩu vị cũng có sự khác biệt, hambogo, xúc xích, bánh có nhân, gà rán KFC…đều là
những món ăn nhanh phổ biến trên toàn thế giới. Người Mỹ khi mời khách dùng cơm tại nhà họ dựa theo khả năng kinh tế của mình để tổ
chức, không bày vẽ khoa trương và coi trọng về mặt hình thức.
Thức ăn trong các bữa ăn thông thường tại gia đình được bày biện trên bàn dài với những món salat, vịt quay hoặc thịt nướng, các món ăn
nguội, cơm chiên, bánh bao… Ngoài ra còn có các loại bánh ngọt, hoa quả, đồ uống và các loại rượu. Khách mời sẽ ngồi xung quanh bàn ăn,
khi chủ nhà có lời mời nhập tiệc thì mỗi vị khách sẽ tự chọn cho mình những món ăn ưa thích để thưởng thức, vừa ăn vừa trò chuyện trong
không khí vui vẻ thoải mái không bị gượng ép.
Nguồn ảnh: sinhcon
Người Mỹ khi mời khách đến nhà dùng cơm, uống một ly rượu hay cùng nhau đi nghỉ cuối tuần ở vùng ngoại ô đó được xem như là một hình
thức giao tiếp kết bạn của họ. Song không yêu cầu đối phương phải có sự đáp lễ, nếu như có cơ hội mời khách đến dùng bữa cùng gia đình
khi có thể. Theo phong tục của người Mỹ khách mời sau khi dùng bữa cơm nên có lời cảm ơn đến chủ nhà đặc biệt là với người phụ nữ trong
gia đình.
Hamburgers. Apple pie. Potato chips. Foods that helped shape our nation.
American food gets an unfair rap these days. With the rise of ethnic cuisines – whatever that means, in this great melting pot —
and supermarkets full of salad bars and microwave dinners, it’s easy to forget how many extraordinary homegrown delights are
still served on tables across the land. Foods with a sense of place. Foods, I don’t feel too bold saying, that helped make America
great.
Our list isn't meant to be comprehensive. We didn't include barbecue because once we started our accounting — from North
Carolina pork to Texas Hill Country brisket — it became clear we’d need a long, separate list to give BBQ its due. And apple pie,
while iconic, is a European import that spread everywhere in Johnny Appleseed's wake.
All these 10 express their origin, though. And each is worth a trip to hunt in its native habitat, from sea to succulent sea.
The original etymology is thought to be French, from chaudière (cauldron), perhaps passed along by French fishermen who
crossed the Atlantic in colonial times. In his book “50 Chowders,” Boston chef Jasper White traces the first recipe to a 1751 edition
of the Boston Evening Post. However, that soup not only neglects to mention clams but fish at all. Its basic foundation was salt
pork and onions, followed by spices and soaked biscuits.
Cod or bass were added in by the end of the 18th century, but not until the mid-1800s do clams begin to appear in recipes, and
the milk — now considered an essential component — didn't appear until the 1860s or so.
The formula was cast by the early 20th century, though the creamy classic occasionally vied for competition with tomato-based
Manhattan clam chowder. (Not, in fact, from Manhattan.)
The clam of choice is usually the Eastern variety known as a quahog (CO-hog), with a shell thicker than three inches; its meaty
insides help give chowder a briny kick. Smaller clams of the same type, Mercenaria mercenaria, are better known as littlenecks or
cherrystones and not usually used for chowder.
A proper chowder is deep and aromatic, with layered flavors atop a porky foundation. Between the Red Sox finally winning, and all
that chowder, I'd warn residents of Boston to expect a flood of visitors who won't leave. And I'm not talking about Harvard
students.
What’s beyond dispute is that pastrami on rye is the Platonic ideal of deli food: two simple slices of good caraway-laced bread, an
inconceivably high pile of warm sliced beef, perhaps a modest smear of mustard.
Pastrami is the very triumph of man over meat. It begins with a simple slab of brisket (or plate) — a cut that, unlike the simple
grill-and-serve of more obvious hunks of cow, begs for transformation.
Then a dry cure: salt, undoubtedly a good portion of cracked black pepper, maybe some sugar and spice — which sits on the
meat as it is smoked with eternal patience. New York meat expert Mr. Cutlets notes the Carnegie cures their pastrami for two
weeks. When finally ready, whole pastramis are steamed for several hours before serving.
It’s an Old World cooking schedule, with a name derived from a Yiddish take on Romanian pastrama, and even older possible
roots in Turkey. But it was New York’s Jewish immigrants who claimed pastrami as their own in the early 20th century, and made it
a staple of culinary life in this greatest of food cities.
In either case, the Amish — who enjoy both “wet” (crumbs on top) and “dry” (crumbs mixed in) versions — have claimed it as their
own. Some might claim the dry is really more a crusted cake than a pie. We're not going to quibble, because either way, it tastes
pretty good.
Those crumbs add texture to a dense, rustic molasses taste. In Amish country, you might be told the name refers to the constant
need to shoo flies away from these toothachingly sweet treats and the pools of molasses that formed atop them.
Variations abound, incorporating chocolate or Steen's cane syrup. They're good too, though the original doesn't need much
updating, save for a dollop of whipped cream on top.
Shoofly pie is perfect baked-good simplicity. It’s proof that sometimes basic ingredients are all you need.
www.smithfieldhams.com
You can get Smithfield hams both cooked or uncooked. The cooked hams have such a strong, salty flavor, you'll need to slice
them paper-thin.
Many Southerners never succumbed to such folly, and thank goodness. While you can find a proper country ham in smokehouses
across the South, Virginia has a true ham legacy, housed in the small city of Smithfield, just across the James River from Newport
News.
Smithfield's ham history traces back at least to 1779. A 1926 state law permits only a ham cured within the town limits to be
awarded the name.
Over the decades, the town’s many smokehouses — Gwaltney, Luter’s, and so on — have been filtered into a single company,
Smithfield Foods, which is to hogs what General Motors is to cars. As the only remaining game in Smithfield town, it holds claim to
what’s arguably the closest American equivalent of Europe's protected food appellations.
Gone are the days of local pigs foraging in nearby peanut fields, even though it was long claimed the nuts provided the hams with
a distinctive earthy note. Though modernity has made the dry-curing process more uniform, nothing can speed the six months
needed to shrink these hams down to size and focus their flavors to salty perfection.
The flavors evoke a time when pigs aspired to something more noble than being the other white meat. In his own ham paean, the
New York Times’ R.W. Apple noted that Smithfield ham “bears about as much resemblance to your pink, watery, run-of-the-mill
brine-cured ham as a horse chestnut does to a chestnut horse.”
So if you find a Italian or Spaniard on a ham rant, serve them up a slice of Smithfield on a biscuit, or fry some up with red-eye
gravy. It’s time to take pride in Americans' own little slice of hog heaven.
5) Po-boys (Louisiana)
In most American sandwiches, the more ingredients, the merrier. The French, by contrast, choose a few essential items, and a
similar spirit seems to inspire the New Orleans po-boy. You certainly can find po-boys that are piled high inside, but some of the
best are models of extraordinary restraint.
Bill Hogan / Chicago Tribune via KRT
A grilled shrimp po-boy demonstrates that seafood may be the perfect sandwich filling.
Food writer Pableaux Johnson calls New Orleans “a city powered by the po-boy,” and the Crescent City abounds with po-boys of
every filling imaginable. Hot sausage? Of course. Soft-shell crab? No prob.
Whether it’s the fried oyster po-boy at Liuzza’s by the Track or one of the many unnamed concoctions at Guy’s, you’ll never run
out of choices.
A few things remain constant: You want it dressed (lettuce and tomato), you want the bread same-day fresh and you want it
served up with a minimum of fuss.
After all, this is workaday food, meant for hungry people of modest means. It’s often attributed to two brothers, Benjamin and
Clovis Martin, who ran a restaurant in the city’s French Market. One apocryphal story has the Clovises serving up free sandwiches
during a 1929 transit strike for those “po’ boys” on the picket line. Complicating that portrait, author John Mariani notes “poor boy”
was a synonym for sandwich as early as 1875.
New Orleans is a city in constant struggle with modernity. Worried by the onslaught of Subway and Quiznos, members of the
newly hatched New Orleans Po-Boy Preservation Society are fighting to ensure we don't forget their city’s loaved legacy.
If you’ve ever eaten a proper po-boy, you know it's simply unforgettable.
6) Fajitas (Texas)
Food, in the cowboy tradition, is usually more pragmatic than transcendent. Fajitas are a notable exception.
www.iabeef.org
The proper fajita is a more minimal affair than you're likely to find in most restaurants: beef, beef and more beef.
Unless you happen to live in Texas — and possibly even then — forget everything you know about the fajitas in your local sorta-
Mex restaurant. Shrimp or veggie fajitas? Pretenders to the throne.
In 1984, Texas A&M lecturer Homero Recio traced fajita history back to the ranches of 1930s south and west Texas. He also
surmised that his grandfather, an butcher in Premont, Texas, helped coin the term.
“We talked to my grandmother, who was from northern Mexico, and she said she had never heard the name in Mexico,” Recio
recalls, “But she had heard it from her husband, who was in south Texas.”
According to Recio, the Mexican cowboys known as vaqueros often received throwaway scraps as part of their pay, including the
cow’s diaphragm, which helps hold in the animal’s innards. In Spanish, faja means belt or sash; fajita would be “little belt.”
The diaphragm, which we now call a skirt steak, is covered with a tough membrane that allowed the vaqueros to grill it outdoors
directly on open mesquite coals — the prototypical fajita.
Fast forward to the late ‘60s, when Sonny “Fajita King” Falcon started selling fajitas in Kyle, 20 miles south of Austin. Falcon
spread skirt-steak gospel at fairs throughout the state, finally opening a Fajita King stand in Austin in 1978. The dish sprang to
nationwide success after a restaurant at the Austin Hyatt Regency put it on the menu in 1982.
Fame can corrupt a food, and absolute fame dealt fajitas a double blow. First, the price of skirt steaks — formerly one of the best
deals at the meat counter — has skyrocketed. Second, the term “fajita” has come to represent nearly any grilled tidbit, marinated
and served up sizzling hot with tortillas.
If you want a true fajita, fear not. Beginning last fall, Austin newspapers reported that Falcon, who left the food industry in the early
1980s, was staging a comeback in Kyle, where he started his fajita legacy in 1969.
So forget the canned mariachi music, strawberry margaritas and fajitas you think you know. A true American delicacy awaits, just
north of the border.
Though outpaced by New York and L.A., Chicagoans pack away their share of franks, over 20 million a year. And Chicago is a
city where less is not, in fact, more — hence the perfect venue to take the wiener’s simple Coney Island styling and go nuts.
A proper Chicago dog needs be dragged through the garden, as you might tell your vendor: You take a Vienna Beef sausage,
nestle it in a poppy-seed bun, then add mustard, relish, chopped onion, tomato, pickled peppers, a dash of celery salt and
perhaps a pickle spear or two. Hold the ketchup. A hearty handheld meal.
As with any perfect food, exact ratios and sources and preparations are up for debate. And yes, we know New Yorkers allege that
Chicago’s red hots are overladen, while the Second City loves to mock the Big Apple’s weenies as wimpy and wan.
We’ll save that endless battle (for pizza) and simply acknowledge that Chicago’s chock-full approach is a perfect summer
reminder that sometimes there’s no place better to eat than the street. Except maybe at the ballpark.
Jake Schoellkopf / AP
A customer at Chile Traditions in Albuquerque, N.M., sorts through a pile of Sandia Hots. Summer brings the chile harvest to New
Mexico, with plenty of the fresh green chiles destined for the pot.
The reference, of course, is to chile sauce or stew. And while we don’t mean to take sides (I guess we’d order “Christmas,” a little
of both) there’s something about New Mexican chile verde that not even chili-loving Texas can trump.
Chile peppers themselves (New Mexico’s state vegetable, needless to say) have grown there at least since explorer Don Juan de
Oñate brought them in 1598 on his trek to extend the Camino Real.
Oñate was ultimately banned from New Mexico for abuses of power, but the pungent pods remained.
Whether you choose red or green, it’s from the same fruit — usually a robust form of the New Mexico chile like the popular "6-4,"
not the milder version formerly called Anaheim. Green chile is made from fresh pods, while red is made from riper, dried pods.
Recipes vary, but garlic and onion are usually key, and perhaps meat if you're making a stew.
Fresh from the plant, green chile can be deceptively hotter than red. And with harvest due in about a month, it’ll soon be prime
time for a bowl or two in New Mexico, where they understand that chile verde is so good, it should go atop nearly everything.
Though we wouldn't say no to red.
Rather than pack yeast into the wilderness, prospectors could take a bit of starter along with them and keep reusing it to bake
their own bread. John Mariani writes that “it was because of the bread’s popularity among miners that ‘sourdough’ became a slang
term for the prospectors themselves and, later, by extension, all Alaskans,” since the city by the bay was also a jump-off for the
later Yukon gold rush.
The tang of a proper San Francisco sourdough is unmistakable, as is the thick crust and irregularly holed interior. Similar breads
can be replicated anywhere, of course, but residents often claim the Bay Area possesses a climate unique to help the necessary
starter bacteria flourish. (Indeed, some microbiologists finger a helpful culprit called Lactobacillus sanfrancisco.)
Astoundingly, the Boudin bakery still survives to this day — claiming to use a portion of the original “mother” starter that began it
all. But other contenders abound, like Berkeley-based Acme Bread. L.A.'s La Brea Bakery even caused a stir when, in 1997, the
editors of the San Francisco Chronicle picked its parbaked sourdough baguette over local offerings.
No matter. San Francisco has indelibly set the sourdough bar. Sit at the waterside Ferry Plaza, take an unadorned bite of the
city’s original culinary trademark, and wonder why Americans ever settle for plain old white bread.
At least it might.
Steve Ringman / Seattle Times via KRT
Tiny Olympia oysters are a delicacy that almost vanished forever. Even now, only farmed Olympias may be eaten.
Once abundant in Northwest waters, this little bivalve (Ostrea lurida) was sought out by native tribes and settlers alike. Native
from southern Alaska to Baja California, they thrived in the shallow tidelands of the Washington coast. Timber ships in the mid-
1800s regularly carried them south to San Francisco, ushering in the Northwest’s reputation as a shellfish haven; still more were
shipped to Seattle.
Production soared by the 1890s, then fell off in the early 20th century as waste from pulp mills and other pollution dwindled oyster
stocks. As harvest of the Olympia dropped by 90 percent, oyster farmers imported non-native species like Pacific and virginica
(Eastern) oysters to replace them. Those larger oysters crowded out their smaller cousins, and predators like the Japanese oyster
drill, a snail, did further damage.
In 1998, Washington began a dedicated program to reseed wild oyster beds with the Olympia. At the same time, commercial
farmers in southern Puget Sound carefully began to raise and harvest the Olympia for commercial sale in their own beds —
resulting in a curious twist: Eating the Olympia can actually help fund its return.
It’s not quite a success yet. Olympias are still being harvested in miniscule numbers, though a similar restoration is under way in
San Francisco Bay and aquatic conservationists like the Blue Ocean Institute are optimistic.
The oyster itself is a diminutive gem, from the size of a quarter to a half-dollar, subtle and slightly sweet when eaten raw, with an
occasional metallic bite at the end. It’s a less filling, more delicate experience than slurping down a meaty virginica or Kumamoto.
But for shellfish lovers, it’s an experience not to be missed — one that nearly vanished forever into the muddy annals of American
cuisine.
•
•
• Create a Power Point Presentation for one of Shakespeare’s plays
• You must research the characters, the plot, and the themes.
• You must follow the Power Point Template found on the school’s resource
web site
• All presentations must be ready for December 12, 2010.
http://www.nonglam.uni.cc/2009/12/8-
thoi-ky-trong-van-hoc-my.html
Nội tạng
Nội tạng của gia súc vẫn được nhiều người châu Âu và châu Á làm sạch và chế biến thành món
ăn. Nhưng ở Úc, Canada và Mỹ, nhiều người không ăn được các món này vì sợ. Các loại lòng
bò, lợn chỉ dùng để chế biến thức ăn dành cho vật nuôi trong nhà.
Rất phổ biến ở Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan... Tại Philippines, món ăn truyền thống dinuguan
được làm từ tiết lợn ăn với bánh bột gạo. Ở châu Âu, đặc biệt là Phần Lan, một số nước thuộc
vùng Baltic như: Ba Lan, Latvia, tiết canh cũng rất phổ biến. Tuy nhiên, người Mỹ không ăn được
tiết canh.
Food in America
By Steven Mintz