Você está na página 1de 6

http://www.vietnamheritage.com.vn/Uploads/Bruce[1]-By-Nguyen-Phan-Que-Mai-4-cot.

jpg

MY OWN PERSONAL FISH SAUCE NƯỚC MẮM TỰ CHẾ


Bruce Weigl Người dịch: Nguyễn Phan Quế Mai

The first time I smelled nước mắm, or fish sauce, Tôi ngửi thấy mùi nước mắm lần đầu tiên trong lúc
was in the middle of a fierce rocket and mortar attack tên lửa và đạn cối pháo kích dữ dội, tại một nơi
at a place called Camp Evans, a base camp for the chúng tôi đặt tên là Trại Evans, một căn cứ của Lữ
1st Air Cavalry during the American War in Vietnam, đoàn Kỵ binh bay số 1, trong chiến tranh của Mỹ tại
thirty-five kilometres north of Hue on Highway No 1. Việt Nam, cách Huế 35 km về phía bắc theo đường
Quốc lộ số 1.

Across from our bunker, which saved our lives more Đối diện với hầm trú ẩn của chúng tôi – cái hầm đã
than a few times, was a tent and bunker that the cứu mạng chúng tôi rất nhiều lần – là một cái lều và
ARVNs – the soldiers of the South Vietnamese hầm trú ẩn của những người lính Việt Nam Cộng
Regime – used. We had taken two very close hits Hòa. Lúc đó chúng tôi đã bị hai quả tên lửa 122 li nổ
with 122 mm rockets, and a large piece of one of rất gần, và một mảnh tên lửa đã xé toang chiếc lều
them had torn into the tent the Vietnamese soldiers ngủ của những người lính Việt Nam Cộng Hòa, mặc
slept in, although they were safe in their own bunker dù lúc đó họ thoát chết vì đã kịp ẩn náu dưới hầm.
at the time.

After the attack I walked the fifty or so yards with a Sau đợt pháo kích, tôi và một số đồng đội bước
few other soldiers towards where a large piece of khoảng 50 mét, để quan sát mảnh tên lửa đã xé rách
one of the rockets had torn into the ARVNs’ tent. chiếc lều. Khi cách lều chừng 15 mét, chúng tôi bị
Before we were even fifty feet away, we were choáng váng bởi một mùi nồng nặc hơn tất cả các
overcome by a stench that was worse than anything loại mùi mà tôi từng tiếp xúc. Lúc đó tôi nghĩ phải có
I’d ever smelled in my life, and I could only believe một người hoặc con thú to lớn nào đó đã chết và thối
that something large had died nearby, and had now rữa gần đó. Tôi không kìm nén được cơn ho dữ dội,
become rotten. I coughed uncontrollably, which cơn ho đã khiến tôi phải hít thở rất sâu, và điều đó
forced me to take a deep breath in, which in turn làm tôi mắc nghẹn và tiếp tục ho không thể kiểm
caused me to gag and cough uncontrollably again. I chế. Tôi di chuyển càng nhanh càng tốt xa khỏi cái
moved as quickly as I could away from the rocketed lều đã bị tên lửa đánh trúng, nơi mà những người
tent where the ARVN soldiers had stored their large, lính Việt Nam Cộng Hòa đã trữ một lu nước mắm
twenty-gallon jar of nước mắm, a sauce impossible, I trên 80 lít, một thứ không thể thiếu trong bữa ăn của
would later learn, not to have in Vietnamese meals. người Việt. Sau đó tôi mới biết điều này, và biết rằng
The pungent fish sauce had spilled there when a lu nước mắm đậm đặc đó bị mảnh tên lửa bắn vỡ.
rocket fragment had smashed into the jar, and it had Nước mắm tràn vào lều, chảy xuống chiếc mương
spread out of the tent and down a small gulley nhỏ gần đó.
nearby.

But there was something about the odour that I liked, Nhưng có điều gì trong cái mùi nồng nặc đó làm tôi
too, and that stayed with me. A few times at that thích và nó lưu lại trong tôi. Một đôi lần ở trại căn cứ
base camp on Highway No 1, or at a fire base or trên Quốc lộ số 1, nơi chiến trường đầy bom và lửa
landing zone nearby, I shared a meal with the ARVN đạn, hoặc ở bãi đậu máy bay gần đó, tôi đã ăn cùng
soldiers who had kindly welcomed me to their với những người lính Việt Nam Cộng Hòa – những
company. I was grateful and hated c-rations supplied người đã vui vẻ cho tôi nhập cuộc. Tôi rất biết ơn họ
to American soldiers. During one of these meals, I vì tôi ghét cay ghét đắng lương khô được cung cấp
asked about the fish sauce. They were joyful when I cho lính Mỹ. Có một lần trong những bữa ăn chung
brought it up – I had learned the Vietnamese – and đó, tôi hỏi họ về nước mắm. Họ rất vui khi tôi đề cập
they quickly produced some, sprinkled it over a small đến nó – lúc này tôi đã biết đôi chút về tính cách của
cup of rice and handed it to me. It was delicious: a người Việt – và họ nhanh nhảu rót ra một ít, chan lên
wonderful combination of pungent and sweet, and một chén cơm trắng nhỏ và đưa cho tôi. Thật là
the richness too of the taste of the river that flows ngon: một sự phối hợp tuyệt vời giữa sự đậm đà và
back into the darkness where time is. ngọt ngào, và sự trù phú của một dòng sông chảy về
bóng tối nơi thời gian chiếm hữu.

From then on I ate fish sauce whenever I had the Kể từ lúc đó, tôi ăn với nước mắm bất cứ khi nào có
opportunity in Vietnam, which wasn’t very often; of thể ở chiến trường Việt Nam, nhưng cơ hội đó
course it wasn’t included in our c-rations or in our không nhiều. Dĩ nhiên nước mắm không nằm trong
base camp meals cooked for American soldiers. Still, khẩu phần lương khô hoặc trong những bữa ăn
somehow, I kept a taste for it in my mind, and only được chuẩn bị cho lính Mỹ nơi căn cứ trại. Nhưng tôi
had to think of it to make my mouth water. I learned luôn giữ hương vị của nó trong tâm trí tôi, và chỉ cần
that you could do a lot with fish sauce: it is a nghĩ về nước mắm là tôi đã ứa nước bọt. Tôi tìm
wonderful dipping sauce, and can be used in cooking hiểu nhiều hơn về nước mắm: nước mắm dùng làm
to add taste and to replace salt. During the war, nước chấm, dùng để nấu ăn để thêm hương vị và
some Vietnamese soldiers I had met even drank it to thay cho muối. Trong chiến tranh, một số người Việt
keep themselves warm, especially if they had to be thậm chí còn uống nước mắm để giữ cho thân thể
in the water for a long time. With its special smell, họ ấm áp, đặc biệt là khi họ phải ngâm mình xuống
you can also use it in a trap as bait, and, most nước trong thời gian dài. Với cái mùi đặc biệt của
importantly, you can use it to make practically any nước mắm, nó cũng giúp mồi hoặc bẫy thú lợi hại
food you can think of taste better. hơn. Và nước mắm làm cho tất cả những thứ bạn ăn
ngon hơn.

When I left the Vietnam battlefield for what I thought Khi rời chiến trường Việt Nam, tôi nghĩ rằng tôi sẽ
at the time was forever, I didn’t bring very much of không bao giờ quay trở lại. Tôi mang theo rất ít văn
the Vietnamese culture with me, largely because that hóa Việt về cùng, lý do chính là bởi nền văn hóa đó
culture had been kept from us. I know now that it đã bị ngăn cách với chúng tôi. Tôi biết rằng nó đã bị
was kept from us because it is a rich and very old ngăn cách với chúng tôi vì nó là một nền văn hóa lâu
culture, and it was kept from us in order to keep us đời, giàu có. Nó bị ngăn cách với chúng tôi để chúng
from seeing the Vietnamese as real people, at least tôi không thể nhìn thấy con người Việt Nam như
the Vietnamese who fought on the side of the North, những con người thật, nhất là những con người
which in turn made it easier to kill them. I didn’t bring đang chiến đấu cho miền Bắc, chống lại chúng tôi ở
much Vietnamese culture back with me after the war, chiến tuyến bên kia, để chúng tôi cảm thấy dễ dàng
but I brought a love for what I thought was a beautiful hơn khi giết họ. Tôi không mang nhiều văn hóa Việt
green paradise of a country, whose people seemed theo về cùng tôi sau chiến tranh, nhưng tôi mang
sweet and kind and generous of spirit. I brought theo một tình yêu về một đất nước xanh như thiên
back, too, a sack full of sorrows, and a lack of trust in đàng, nơi mà những con người tôi gặp luôn luôn tỏ
my government. I also came back with a real taste ra tốt bụng và rộng lượng. Tôi cũng đem theo về một
for nước mắm. ba lô đầy những nỗi buồn sâu thẳm, một sự trống
vắng niềm tin đối với chính phủ của mình. Và tôi
đem theo một sự nghiện ngập đối với nước mắm.

In Lorain, Ohio, the steel mill town of my childhood Ở Lorain, tiểu bang Ohio, một thị xã cho nhiều
and adolescence, there was no nước mắm to be xưởng chế biến sắt, nơi tôi sinh ra và lớn lên, không
found in December of 1968. There wasn’t any in thể nào tìm thấy nước mắm vào tháng 12 năm 1968.
Cleveland either and no Vietnamese restaurants or Tôi cũng không thể tìm thấy nước mắm ở Cleveland,
shops or markets that sold Vietnamese food; not không có một nhà hàng, cửa hiệu, hoặc chợ bán đồ
even any Vietnamese in the surrounding area yet. ăn Việt Nam nào. Lúc đó chưa có một người Việt
At home on leave from the war I used to stare out of nào sống ở khu vực xung quanh. Sau khi rời chiến
the windows of my father’s house and watch the trường, trở về quê hương, tôi thường nhìn đăm đắm
yards fill up with snow and know that no one was qua cửa sổ căn nhà cha tôi, quan sát tuyết phủ đầy
hiding in the trees who wanted to kill me. I felt safe trên những chiếc sân để biết rằng không có ai đang
but I missed Vietnam as well, something I never trốn sau bụi cây để tìm cách giết tôi. Tôi cảm thấy an
could have said to my fellow soldiers or even to my toàn nhưng tôi cũng rất nhớ Việt Nam. Nhưng tôi
own family; they would have thought something was không thể bày tỏ nỗi nhớ đó với những cựu binh
wrong with me, that the war had made me lose my khác và với cả gia đình của mình. Nếu biết, họ sẽ
mind, so I kept it to myself. And as the weeks and nghĩ rằng có điều gì đó không ổn với tôi, và chiến
months passed by me like debris on a river, I was tranh đã làm tôi mất trí. Vì thế tôi giữ nỗi nhớ đó cho
lost in some kind of reverie I couldn’t name. I was not riêng mình. Sau đó thời gian trôi đi như những mảnh
the person I had been a year earlier; I had left part of vụn trên sông, tôi bị lạc vào cơn mộng tưởng không
my soul back in Vietnam. thể gọi tên. Tôi không còn là con người của một năm
về trước; tôi đã bỏ lại một phần hồn vía của mình ở
Việt Nam.

When spring came I did what I always do in the Khi mùa xuân tới, tôi làm một việc mà tôi luôn làm
spring: fish for big lake trout that spawned in the trong mỗi mùa xuân: câu những con cá hồi to đã nảy
nearby rivers, streams. After one lucky day I brought nở sinh sôi nơi những con sông, dòng suối gần nhà.
home three large, five-or-six pound fish, and as I Sau một ngày may mắn, tôi đem về ba con cá to,
cleaned them behind my father’s garage I smelled mỗi con nặng khoảng 2 đến 3 cân. Khi tôi làm vảy
the fish and I remembered a conversation I’d had chúng sau gara ô tô của cha tôi, tôi ngửi thấy mùi cá.
with an ARVN solider in Vietnam about nước mắm, Lúc đó tôi nhớ về cuộc trò chuyện với một người lính
about how it was the most special and important Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tôi đã nói về nước mắm,
ingredient in Vietnamese cooking, how it was almost về việc nó là gia vị quan trọng và đặc biệt nhất trong
mystical in terms of its power to transform the flavour nghệ thuật ẩm thực của người Việt Nam, rằng nó có
of different foods in different ways, and how it was sức mạnh huyền bí để biến đổi hương vị của những
made. He told me this last thing to illustrate that I loại thức ăn khác nhau, theo những cách khác nhau,
could make it at home. và về cách làm nước mắm. Cuối câu chuyện, anh ta
cho tôi biết cách làm nước mắm tại nhà.

I’d forgotten until the moment I was cleaning the fish, Tôi đã quên câu chuyện này cho đến khi tôi làm vảy
the spring after I’d come home from the war, leaving cá, vào mùa xuân mà tôi trở về nhà và bỏ lại rất
much of my memory behind. He’d told me that all I nhiều trí nhớ của tôi nơi chiến trường xưa. Tôi nhớ
had to do was clean the insides of the fish, open anh ấy đã bảo tôi rằng tôi chỉ cần mổ bụng, bỏ ruột,
them up, salt them, and stretch them out across xẻ đôi con cá, ướp muối và trải chúng trên những
some sticks to ferment, and then basically wait for chiếc que xếp sẵn, sau đó cứ chờ chúng rã xuống
them to rot into a pan below. Once they had chiếc nồi bên dưới. Anh ấy nói rằng, khi mà chúng
completely fallen apart, he said I should then cook đã rã hết ra, tôi sẽ nấu chúng với lửa nhỏ đến khi
the remains very slowly over a low flame until the chúng thật nhừ và quánh đặc thành một chất lỏng
fish had completely broken down and condensed tuyệt đẹp. Ý nghĩ về nước mắm nơi căn lều của
into a beautiful liquid. Just thinking about the nước những người lính Việt Nam Cộng Hòa ở Trại Evans
mắm that had spilled in the ARVN’s tent at Camp đưa tôi trở về Việt Nam, và mùi nước mắm rất nặng
Evans sent me back to Vietnam, and that strong thực sự đã trở thành mùi của một đất nước.
smell that was in fact for me the smell of a country.

I decided then, without much thought, to make my Vì thế tôi quyết định mà không cần suy nghĩ nhiều, là
own fish sauce. At the hardware store I bought some mình sẽ tự làm nước mắm. Tôi ra cửa hàng vật liệu
chicken wire and nails, and using scrap wood from tìm mua dây thép và đinh. Dùng những thanh gỗ
my father’s garage I built a small drying rack. From thừa trong gara ô tô của cha tôi, tôi dựng một giàn
my mother’s kitchen I brought a flat and shallow pan, phơi nhỏ. Tôi lấy một chiếc chảo từ bếp của mẹ tôi,
and, using bricks, stacked it under the rack to catch dùng gạch kê nó dưới giàn phơi để đón lấy chất lỏng
the fluids from the rotting fish. từ những con cá đang rữa ra.

I knew I only had to wait, and so I came inside the Tôi biết rằng tôi phải chờ chúng rữa ra, vì thế tôi vào
house and forgot about my own personal fish sauce, nhà và quên mất nước mắm của riêng tôi, đang lên
fermenting behind my father’s garage in Lorain, men đằng sau gara ô tô của cha tôi tại thị xã Lorain,
Ohio, twelve thousand miles from a war that still tiểu bang Ohio, cách cuộc chiến vẫn đang ác liệt
ground on. I forgot about it the way I lost most of my mười hai nghìn dặm. Tôi quên như tôi đã để quên
memory with that war. I forgot about it until one phần lớn trí nhớ của mình tại cuộc chiến ấy. Tôi
evening, I was sitting in my father’s house, looking quên cho đến một buổi tối, tôi đang ngồi trong nhà
out of the window. I don’t remember what I was của cha tôi, nhìn ra cửa sổ. Tôi không nhớ tôi đã
thinking about then, but I know I was lost, and was nghĩ gì, nhưng tôi nhớ rằng lúc đó tôi đã loay hoay
having a hard time finding my way; I know the war tìm lối đi cho mình. Tôi biết rằng chiến tranh đã ăn
had gotten inside of me somehow and was never vào tôi và bám riết, không buông tha tôi. Ngồi trong
going to let go. Sitting there in my father’s house I căn nhà của cha, tôi nghe có sự náo động bên ngoài
heard a ruckus outside and walked to the window to và bước sát đến cửa sổ, nhìn ra ngoài và thấy nửa
see half a dozen police cars parked sideways on the tá xe cảnh sát đang đỗ bên đường và những khoảng
street and the yards blue with policemen. Outside on sân ngập xanh màu áo cảnh sát. Tôi đi ra ngoài và
the street where my neighbours had gathered, I nhập vào đám đông nơi hàng xóm của tôi đang tụ
asked some cop I recognized from the block what tập. Tôi hỏi người cảnh sát thường tuần tra quanh
was going on. khu vực tôi sống rằng điều gì đang xảy ra vậy,

‘Someone said there’s a dead body in one of these “Có người báo với chúng tôi rằng có một xác chết ở
houses,’ he said. một trong những căn nhà này”, anh ta nói.
‘Why do they think that,’ I asked. “Tại sao họ nghĩ thế?” tôi hỏi.
‘Jesus,’ he said ‘because of the smell. Can’t you “Chúa ơi”, anh ta thốt lên “vì cái mùi nồng nặc này.
smell it?’ Anh không ngửi thấy nó sao?”

Standing there in the middle of the street at night, my Đứng giữa con phố, ban đêm, xung quanh tôi hàng
neighbours gathered around as if at some kind ritual, xóm đang đứng tụ tập như thể một nghi lễ, những
the yards and fields filled with police, I took my first chiếc sân nhà đầy cảnh sát, tôi hít hơi thở sâu đầu
deep breath since coming outside. I knew tiên từ khi tôi ra ngoài. Tôi biết ngay vấn đề, và báo
immediately what the problem was, and told the cop cảnh sát và một số hàng xóm đi theo tôi đến giàn
that I knew where the smell was coming from. Three phơi, đằng sau gara ô tô của cha tôi. Trước khi họ
cops and a handful of neighbours followed me like a thấy cảnh tượng phơi cá của tôi, họ choáng váng bởi
squad to my drying rack behind my father’s garage. mùi nồng nặc và buộc phải quay chân.
Before they could even see what I had done, they “Đấy là xác chết của anh” người cảnh sát thường
were overcome by the smell and had to turn back. tuần tra khu vực của tôi đứng đằng xa và nói, chỉ tay
‘That’s your dead body,’ the cop from the vào những con cá đang thối rữa.
neighbourhood said from afar, pointing at the rotting
fish.

After everything had been straightened out with the Sau khi mọi việc đã được giải quyết với cảnh sát và
police and with my kind neighbours and I had với những người hàng xóm tốt bụng của tôi, tôi hứa
promised to get rid of the rotting fish as soon as với họ rằng tôi sẽ tiêu hủy những con cá càng sớm
possible, I gathered up the remains of three trout and càng tốt. Tôi nhặt nhạnh những thứ còn lại của ba
put them into a pan. Outside I made a fire and con cá hồi và bỏ chúng vào nồi. Bên ngoài nhà, tôi
cooked the fish slowly for a long time until the rotting nhóm lửa và nấu những con cá này với lửa thật nhỏ,
fish had almost completely liquefied. I strained the thật lâu cho đến khi chúng thật nát và hầu như biến
liquid through a fine sieve and then cooked it slowly thành chất lỏng. Tôi lược bỏ phần xác qua một chiếc
again. In the end, the colour was like the colour of rây và lại nấu tiếp. Cuối cùng, màu của chất lỏng trở
the sun the moment before it sets into the horizon. I nên giống màu mặt trời trước khi lặn xuống chân
sealed a jarful and kept it hidden in my bedroom. trời. Tôi đổ đầy chất lỏng vào một cái lọ, đậy nắp thật
chặt và giấu nó trong phòng ngủ của mình.

In 1968, in the Central Highlands of Vietnam, some Năm 1968, ở cao nguyên Trung phần Việt Nam, một
ARVN soldiers had shared with me their meagre số người lính Việt Nam Cộng Hòa đã chia cho tôi ăn
rations, and had taught me about a sauce made from nhu yếu phẩm của họ, đã dạy tôi cách làm một loại
fermented fish that was like a magic elixir, like a nước từ cá lên men, loại nước giống như thuốc
cure-all for your body and your soul. It has become trường sinh bất lão diệu kỳ, như một phương thuốc
the smell of Vietnam for me in my mind when I’m chữa cho tất cả các loại bệnh thể xác và linh hồn.
home and lonely for my second country. That same Đối với riêng tôi, mùi nước mắm đã trở thành mùi
spring I made my own fish sauce in the back yard of của đất nước Việt Nam khi tôi ở Mỹ và thương nhớ
my steel worker father’s house, and sealed it in a jar về đất nước thứ hai của tôi. Mùa xuân năm ấy, tôi
as if it was some kind of essence I needed to hold làm nước mắm của riêng mình nơi sân sau của ngôi
there, forever. I used it secretly on my food but had nhà cha tôi – một người công nhân làm ở xưởng chế
to be careful because the smell was so strong and I biến sắt. Nước mắm ấy tôi đã đậy nắp thật chặt như
had already had the police called to the một loại tinh hoa mà tôi cần phải mãi mãi giữ gìn. Tôi
neighbourhood. dùng nước mắm một cách bí mật cùng thức ăn,
nhưng luôn luôn phải rất cẩn trọng vì mùi của nó rất
nặng và vì cảnh sát đã đến thăm hỏi tôi chính vì cái
mùi đó.
All these years the war has stayed with me; no Sau rất nhiều năm, chiến tranh đã di trú vào tôi, mặc
matter how much you want to forget, some things dù làm đủ cách để quên nó, có những điều cứ khắc
stay imprinted on your brain. When I eat at sâu vào tâm khảm. Khi tôi ăn ở những cửa hiệu, nhà
Vietnamese food shops and restaurants around the hàng Việt Nam trên đất Mỹ, tôi luôn nói với họ rằng
US, I always say that I don’t want the American fish hãy đừng cho tôi nước mắm kiểu Mỹ, mà phải là
sauce, but the real Vietnamese version. I’ve learned kiểu chính hiệu Việt Nam. Tôi đã học được rằng thức
that Vietnamese food tastes better when cooked with ăn Việt Nam ngon hơn khi nấu với nước mắm ngon,
better fish sauce, or eaten with fish sauce skilfully hoặc chấm với nước mắm được pha khéo léo với đủ
mixed with the right amount of garlic, chilli, lemon, lượng tỏi, ớt, chanh, nước và đường. Từ một fan
sugar and water. I’ve gone from being a fan of fish hâm mộ nước mắm, tôi trở thành một người sành
sauce to being a connoisseur, searching in Asian sỏi khó tính, lùng sục những cửa hiệu châu Á ở Mỹ
markets around the country for the best fish sauce. để tìm nước mắm ngon. Ở quê hương tôi, trong thập
In my country, in the 80s and 90s, although kỷ 80-90, mặc dù người Việt bắt đầu di cư sang, rất
Vietnamese people started to come to the US, it was khó tìm được nước mắm ngon.
very difficult to find good fish sauce.

Some varieties of fish sauce seem to have been Một số loại nước mắm hình như chỉ được pha bằng
made with water, salt and food colouring, but they nước, muối và màu thực phẩm nhưng đã đánh lừa
have still sometimes tricked the big noses. Only after được những cái mũi to. Chỉ qua một quá trình tìm
my thorough research could I find reliable stores to kiếm công phu, tôi mới tìm được những cửa hiệu tin
supply my fish sauce. Sometimes, when I cook for cậy có thể cung cấp nước mắm tốt cho tôi. Thỉnh
my friends, I use a little nước mắm in a European thoảng, khi nấu ăn mời bạn bè, tôi dùng một ít nước
recipe that they love, and often after the meal they mắm để nấu những món ăn châu Âu mà họ yêu
say how special and delicious the food was, and thích. Và thường sau bữa ăn bạn tôi sẽ nói rằng
then ask, ‘But what was that spice in there . ., that thức ăn thật ngon và mùi vị rất đặc biệt, rồi hỏi “anh
special flavour?’ I never tell them. I want it to be my đã dùng gia vị gì trong công thức chế biến đấy...? cái
secret, still. vị này rất đặc biệt?”. Tôi không bao giờ kể cho họ
nghe. Cho đến hôm nay, tôi muốn giữ bí mật đó cho
riêng mình.

About the author Thông tin về các Tác giả


Professor Bruce Weigl fought in the battlefields of Giáo sư Bruce Weigl đã chiến đấu trên chiến trường
Quang Tri in 1967 to 1968 and witnessed some of Quảng Trị từ năm 1967 đến năm 1968 và chứng
the most terrible events of the American War in kiến một số sự kiện khủng khiếp nhất của cuộc
Vietnam. Returning home, he sought refuge in chiến của người Mỹ ở Việt Nam. Trở về nhà, anh tìm
poetry. Bruce Weigl once said, ‘the war has robbed nơi ẩn náu trong thơ ca. Bruce Weigl từng nói,
many things from me, but it has given me poetry, "chiến tranh đã cướp đi nhiều thứ từ tôi, nhưng nó
and love for Vietnam and its people’. Weigl’s first full- đã mang lại cho tôi thơ ca, và tình yêu dành cho Việt
length collection of poems, A Romance, was Nam và người dân đất nước này. Tuyển tập thơ đầy
published in 1979. He is now the author of thirteen đủ đầu tiên của Weigl, A Romance, được xuất bản
poetry collections, most recently The Abundance of năm 1979. Ông hiện là tác giả của mười ba tập thơ,
Nothing and the best-selling memoir The Circle of gần đây nhất là The Abundance of Nothing và cuốn
Hanh. hồi ký bán chạy nhất Circle of Hanh.

Fish sauce for a purpose Nước mắm có chủ đích


On 5/12/2010, the article ‘My Own Personal Fish Vào ngày 5/12/2010, bài viết “Nước mắm tôi tự làm”
Sauce’ was published on the Weekend Edition of được đăng trên Tuổi trẻ cuối tuần, một ấn bản của
Tuoi Tre newspaper. báo Tuổi trẻ.
The editor immediately received a phone call from Biên tập viên ngay lập tức nhận được một cuộc điện
the Director of Thanh Ha Company, who specializes thoại từ Giám đốc Công ty Thanh Hà, người chuyên
in making Phu Quoc’s traditional fish sauce and who làm nước mắm truyền thống Phú Quốc đã cảm động
was touched deeply by Bruce Weigl’s article that she sâu sắc bởi bài báo của Bruce Weigl nên bà muốn
wanted to invite Professor Weigl to Phu Quoc, to mời Giáo sư Weigl đến Phú Quốc, để chứng kiến
witness Vietnam’s traditional methods of fish-sauce- các phương pháp làm nước mắm truyền thống của
making. Due to his time restriction, Professor Bruce Việt Nam. Do hạn chế về thời gian, Giáo sư Bruce
Weigl promised to visit Phu Quoc island next time, Weigl hứa sẽ đến thăm đảo Phú Quốc vào lần tới,
but he asked Thanh Ha Company to give a nhưng ông đã yêu cầu Công ty Thanh Hà cấp học
scholarship to an outstanding Vietnamese student, bổng cho một sinh viên Việt Nam xuất sắc, thay vì
instead of paying for his trip to Phu Quoc. On 22 trả tiền cho chuyến đi đến Phú Quốc. Vào ngày 22
December 2010, Professor Bruce Weigl presented tháng 12 năm 2010, Giáo sư Bruce Weigl đã trao
the first scholarship of the Nguyen Weigl scholarship tặng học bổng đầu tiên của chương trình học bổng
programme, established with the launching of his Nguyễn Weigl, được thành lập với việc ra mắt cuốn
book ‘After the Rain Stopped Pounding’ (compiled sách ‘After the Rain Stopped Pounding’ (do Nguyễn
and translated by Nguyen Phan Que Mai, Tre Phan Quế Mai biên soạn và dịch, Nhà xuất bản Trẻ
Publishing House 2010). The scholarship receiver is 2010). Người nhận học bổng là Lê Anh Đức, sinh
Le Anh Duc, a student from Ho Chi Minh City viên Đại học Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh.
University of Arts.

http://www.vietnamheritage.com.vn/pages/en/8121151334671-A-rocket-fragment-opens-a-jar-of-nuoc-
mam.html
( Nhà thơ danh tiếng Bruce Weigl ( Mỹ ) đã trở thành Đại sứ nước mắm của công ty nước mắm Thanh Hà
cách đây dăm năm. Trong nhà ông ở Oberlin, Ohio lúc nào cũng có một hai chai nước mắm. Câu chuyện về
nước mắm của ông là một câu chuyện kỳ thú. Tôi xin giới thiệu bài viết của ông qua bản dịch của nhà thơ
Nguyễn Phan Quế Mai )

Você também pode gostar